Yêu cầu triển khai đổi mới công tác trợ giúp pháp lý ở Việt Nam và kết quả đạt được trong thời gian qua
16:29 22/07/2021
1. Yêu cầu đổi mới công tác trợ giúp pháp lý ở Việt Nam
a) Đổi mới để phù hợp xu hướng phát triển trợ giúp pháp lý trên thế giới
Mặc dù có sự khác nhau giữa định hướng xu hướng phát triển giữa những nước có hệ thống trợ giúp pháp lý (TGPL) phát triển lâu đời và những nước mới thành lập nhưng mục đích chung mà các nước đều hướng đến là sử dụng TGPL như một công cụ bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho nhóm người yếu thế trong xã hội. Đó là, trong khi các nước có hệ thống TGPL phát triển thì ngày càng có xu hướng chuyển từ mô hình truyền thống (theo đó, luật sư là chủ thể duy nhất cung cấp thông tin, tư vấn, trợ giúp ở tòa án) sang mô hình mới đó là giúp người dân tự giải quyết những vướng mắc pháp luật thì đối với những nước mới thành lập và đang phát triển hoạt động này là đang nỗ lực để cải thiện nhân quyền và nhằm mục đích biến việc tiếp cận công lý thành sự thật, sử dụng hệ thống TGPL hiệu quả để bảo vệ nhân quyền và phiên tòa công bằng.
Mặt khác, năm 2012 Đại hội đồng Liên Hợp quốc đã thừa nhận TGPL là một thành tố cơ bản của hệ thống tư pháp hình sự dựa trên nguyên tắc pháp quyền, là cơ sở cho việc thụ hưởng các quyền khác. Nhà nước cần bảo đảm tất cả những người bị bắt, bị giam giữ, bị tình nghi hoặc vi phạm luật hình sự bị phạt tù có thời hạn hoặc bị kết án tử hình đều có quyền được TGPL ở tất cả các giai đoạn của tư pháp hình sự. Như vậy, quyền được tiếp cận TGPL là quyền rất quan trọng trong tư pháp hình sự thế giới. Trong bối cảnh Việt Nam đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì quyền tiếp cận TGPL cũng cần được coi là quyền cơ bản của công dân, bảo đảm bất kỳ người dân không phân biệt giàu hay nghèo đều có quyền có luật sư bảo vệ trong phiên tòa hình sự để hưởng phiên tòa công bằng. Bên cạnh đó, ngày 12/11/2013, Việt Nam đã chính thức là thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc, đây là Hội đồng có tiếng nói quan trọng nhất trong hệ thống các thể chế của Liên hợp quốc về quyền con người, góp phần thúc đẩy sự tôn trọng và bảo vệ trên phạm vi toàn cầu các quyền con người và tự do cơ bản một cách công bằng, bình đẳng và không phân biệt đối xử. Điều này sẽ vừa là cơ hội vừa là thách thức trong vấn đề bảo vệ nhân quyền ở Việt Nam, trong đó vấn đề bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự được coi là một trong những vấn đề cơ bản của nhân quyền.
b) Đổi mới để phù hợp với các chính sách của Đảng, Nhà nước
- Về chính sách dịch vụ công
Tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rõ “Hoàn thiện hệ thống chính sách và cơ chế cung ứng dịch vụ công cộng thích ứng với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước không ngừng nâng cao mức bảo đảm các dịch vụ công cộng thiết yếu cho nhân dân”. Bộ Chính trị kết luận về Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công” nêu rõ “Nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các hoạt động sự nghiệp công cơ bản và đảm bảo hỗ trợ cho các đối tượng chính sách xã hội, các đối tượng nghèo để được tiếp cận các dịch vụ, đồng thời có chính sách khuyến khích xã hội hóa thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư cung cấp dịch vụ sự nghiệp công”. Tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa một số định hướng đổi mới cơ chế quản lý đối với các đơn vị sự nghiệp công, Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI ngày 27/5/2013 một số vấn đề về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến 2020 cũng đề cập “… Có chính sách khuyến khích thúc đẩy phát triển số lượng và nâng cao chất lượng các dịch vụ công; tạo môi trường bình đẳng không phân biệt giữa đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập trong việc cung cấp dịch vụ cho người dân”.
Đặc biệt, ngày 25/10/2017 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập với mục tiêu: "Đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập, bảo đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; giữ vai trò chủ đạo, then chốt trong thị trường dịch vụ sự nghiệp công; cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu có chất lượng ngày càng cao. Giảm mạnh đầu mối, khắc phục tình trạng manh mún, dàn trải và trùng lắp; tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, viên chức. Giảm mạnh tỉ trọng, nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập để cơ cấu lại ngân sách nhà nước, cải cách tiền lương và nâng cao thu nhập cho cán bộ, viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập. Phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp công và thu hút mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch vụ sự nghiệp công".
Do đó, TGPL với tư cách là một loại hình dịch vụ công, cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL là nhóm yếu thế trong xã hội, giúp họ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng pháp luật cũng cần phải có sự đổi mới cho phù hợp với chính sách về dịch vụ công nói chung.
- Về chính sách giảm nghèo
Trong bối cảnh đó, Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa XI về một số chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 xác định: “Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách hỗ trợ hộ cận nghèo để giảm nghèo bền vững” và “Nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội, tiếp tục mở rộng đối tượng thụ hưởng với hình thức hỗ trợ thích hợp”. Đồng thời, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 7 về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020 đã nêu ra nhiệm vụ: “Xây dựng chuẩn nghèo mới theo phương pháp tiếp cận đa chiều nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu và đáp ứng các dịch vụ xã hội cơ bản”. Ngày 19/11/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020. TGPL là một trong 7 nhóm chính sách giảm nghèo cơ bản, theo đó, cùng với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước về chính sách giảm nghèo chung, chính sách TGPL càng được quan tâm. Trước những yêu cầu mới của công tác giảm nghèo, hoạt động TGPL cũng cần có sự thay đổi cho phù hợp.
- Về chính sách xã hội hóa
Một trong những mục tiêu được xác định mang tính chất chiến lược của ngành Tư pháp là đẩy mạnh thực hiện công tác xã hội hóa các dịch vụ công, dịch vụ pháp lý do ngành Tư pháp quản lý trên cơ sở xác định rõ mức độ, tính chất và lộ trình cho từng lĩnh vực cụ thể; phân định rõ vai trò của Nhà nước với các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp; phân cấp hợp lý giữa Trung ương và địa phương trong quản lý các lĩnh vực dịch vụ công, dịch vụ pháp lý.
Theo Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 cần phải “Đẩy mạnh hoạt động TGPL cho người nghèo và các đối tượng chính sách theo hướng xã hội hoá” và Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị cũng đã nhấn mạnh nhiệm vụ “xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp” và sau 08 năm triển khai Chiến lược cải cách tư pháp này vẫn khẳng định “đổi mới cơ chế, chính sách nhằm mở rộng đối tượng, nâng cao chất lượng TGPL cho người dân, hỗ trợ các đối tượng cần được trợ giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, bảo đảm công lý, công bằng xã hội; đẩy mạnh việc xã hội hóa hoạt động TGPL”.
Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, nêu ''Tiến hành đồng bộ với các hoạt động cải cách hành chính, cải cách chế độ công vụ, công chức; nâng cao chất lượng khu vực dịch vụ công và đẩy mạnh XHH sự nghiệp công''. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả: “Chuyển một số nhiệm vụ và dịch vụ hành chính công mà Nhà nước không nhất thiết phải thực hiện cho doanh nghiệp, các tổ chức xã hội đảm nhiệm”; Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 xác định mục tiêu “Đẩy mạnh cung ứng dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị trường, thúc đẩy xã hội hóa dịch vụ sự nghiệp công” nhằm nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ sự nghiệp công, để người dân ngày càng hài lòng với dịch vụ công nhận được.
Mặt khác, cần phải khẳng định, tính chất xã hội hóa hoạt động TGPL – là hoạt động hoàn toàn không có thu, do đó không đồng nhất với cách hiểu các hoạt động xã hội hóa trong các lĩnh vực khác như giáo dục, y tế, công chứng,… Theo đó, hoạt động TGPL của Nhà nước hay xã hội đều phải bảo đảm chất lượng ngang nhau với cùng cơ chế thực hiện và cơ chế giám sát. Đặc biệt, đối với xã hội, Nhà nước với vai trò quản lý cần tạo cơ sở pháp lý cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội thực hiện TGPL những cũng đồng thời phải tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát chất lượng hoạt động TGPL, bảo đảm rằng dù người nghèo và đối tượng chính sách được hưởng dịch vụ pháp lý không mất tiền nhưng chất lượng dịch vụ không thua kém dịch vụ có thu tiền.
c) Công tác trợ giúp pháp lý đang đặt trong bối cảnh có sự thay đổi về thể chế liên quan đến hoạt động TGPL
Ngày 28/11/2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó có nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân bảo đảm quyền tiếp cận công lý và quyền cơ bản của con người. Theo đó, Hiến pháp đã ghi nhận quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân, đồng thời bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Như vậy, Nhà nước phải có trách nhiệm trong việc bảo đảm thực hiện những nguyên tắc này trên thực tế thông qua nhiều phương thức, trong đó có TGPL. Chủ trương, chính sách đã có sự thay đổi, yêu cầu cải cách tư pháp đặt ra là phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; chủ trương đổi mới mô hình tố tụng theo hướng kết hợp mô hình tố tụng thẩm vấn và mô hình tranh tụng được xác định cùng với việc các thể chế pháp lý mới liên quan đến hoạt động TGPL như Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư; Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật; Luật Hòa giải ở cơ sở, do đó, đòi hỏi cần có sự đổi mới về tổ chức và hoạt động TGPL nhằm góp phần đáp ứng yêu cầu tranh tụng và tránh chồng chéo với các hoạt động liên quan, bảo đảm công tác TGPL đi vào đúng trọng tâm, bản chất của TGPL là hỗ trợ pháp lý theo vụ việc cho các đối tượng được hưởng chính sách TGPL của Nhà nước.
d) Đổi mới để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu TGPL của người dân
Như đã phân tích, TGPL là một phần quan trọng trong chính sách của Nhà nước ta nhằm tăng cường quyền dân chủ và hệ thống tư pháp nhằm phục vụ người dân. Thực hiện TGPL miễn phí là thực hiện một hoạt động tiến bộ, có tính nhân văn cao cả vì con người; bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của con người đồng thời cũng là bảo vệ lợi ích pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhờ được TGPL miễn phí mà những người nghèo, những đối tượng chính sách và các đối tượng yếu thế khác trong xã hội có điều kiện tiếp cận, sử dụng các quy định của pháp luật để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đặc biệt, TGPL đã trở thành chỗ dựa của người nghèo, đối tượng chính sách và nhóm người yếu thế trong xã hội trong các vướng mắc, tranh chấp pháp lý.
Đặc biệt, khi triển khai các chương trình của Nhà nước liên quan đến nông thôn, miền núi, hải đảo, dân tộc, ưu đãi xã hội, trợ giúp xã hội, an sinh xã hội... thì nhu cầu TGPL của người dân sẽ tăng hơn. Hơn nữa, trình độ dân trí nói chung và trình độ pháp lý nói riêng của người dân nước ta còn chưa cao và không đồng đều, nhu cầu TGPL của các đối tượng thuộc diện TGPL là rất lớn[1].
Hơn nữa, trong điều kiện đang trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật thì số lượng các văn bản pháp luật nhiều và chưa có tính thống nhất, nhiều quy định tản mạn, rải rác trong nhiều văn bản, chưa tạo thành một chỉnh thể với các nội dung xuyên suốt; chưa mang tính chất ổn định điều chỉnh lâu dài các quan hệ xã hội; nhiều văn bản có hiệu lực rất ngắn, thậm chí mới ban hành đã phải sửa đổi, bổ sung. Đồng thời, tính chất các quan hệ xã hội phát sinh ngày càng diễn biến phức tạp nên thực tế càng yêu cầu chất lượng dịch vụ TGPL được cung cấp phải ngang hàng với dịch vụ pháp lý của luật sư để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng thụ hưởng chính sách này. Do đó, cần lấy quan điểm phục vụ cho người dân, lấy quan điểm phải thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn nhất chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước làm mục tiêu, làm trục để chúng ta thực hiện đổi mới công tác TGPL, theo đó người dân sẽ được hưởng dịch vụ TGPL có chất lượng tương đương với dịch vụ của luật sư cung cấp trong thị trường pháp lý.
đ) Đổi mới để khắc phục những tồn tại, hạn chế thực tiễn triển khai công tác trợ giúp pháp lý
Thực tiễn triển khai công tác TGPL giai đoạn trước năm 2015 gặp nhiều khó khăn, bất cập. Do đó, một mặt cần có những biện pháp khắc phục những hạn chế, bất cập, mặt khác cần có những giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng TGPL nhằm cung cấp dịch vụ pháp lý công thực sự có chất lượng cho người dân mà trực tiếp là các đối tượng thụ hưởng TGPL. Bởi lẽ, nếu tiếp tục triển khai thực hiện công tác TGPL như giai đoạn trước đây thì sẽ không những không khắc phục những hạn chế, bất cập mà còn nảy sinh nhiều bất cập, khó khăn mới, không thể bảo đảm thực hiện đầy đủ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực này, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dịch vụ TGPL của người dân. Do đó, cần có biện pháp nhằm đổi mới công tác TGPL theo hướng nâng cao năng lực, kiện toàn tổ chức, bộ máy của cơ quan quản lý về TGPL; tăng cường quản lý nhà nước trong điều phối các nguồn lực, giám sát, kiểm soát chất lượng; hỗ trợ kinh phí cho các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động TGPL; bảo đảm hoạt động TGPL chất lượng, hiệu quả là yêu cầu tất yếu.
2. Kết quả đổi mới công tác trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong thời gian qua
Tư tưởng đổi mới công tác TGPL được nhen nhóm từ năm 2014, sau khi thực hiện việc sơ kết 02 năm triển khai Chiến lược phát triển TGPL ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (ban hành kèm theo Quyết định số 678/QĐ-TTG ngày 10/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ) và Bộ Tư pháp đã có báo cáo Thủ tướng Chính phủ (Báo cáo số 77/BC-BTP ngày 26/3/2014), trong đó có nêu vấn đề cần đổi mới công tác TGPL. Trước những tồn tại, hạn chế của công tác TGPL, Văn phòng Chủ tịch nước đã có Công văn số 379/VPCTN-TL ngày 25/3/2014 thông báo ý kiến của Chủ tịch nước và Văn phòng Chính phủ đã có Công văn số 2481/VPCP-PL ngày 11/4/2014 thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ về công tác TGPL đã đưa ra yêu cầu cần có biện pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác TGPL trong thời gian tới.
Trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp đã chủ động nghiên cứu, xây dựng Đề án đổi mới công tác TGPL để khắc phục những hạn chế, bất cập. Đề án đã được nghiên cứu và xây dựng dựa trên thực trạng công tác TGPL, yêu cầu tăng cường năng lực, khả năng đáp ứng hiệu quả nhu cầu TGPL của người dân, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước, công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính của Ngành Tư pháp và có tham khảo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới. Ngày 01/6/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015 - 2025 (Đề án). Đề án đã đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp để đổi mới về tổ chức thực hiện TGPL, nâng cao chất lượng người thực hiện TGPL, nâng cao chất lượng hoạt động TGPL, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong việc tiếp cận dịch vụ TGPL của Nhà nước. Nội dung Đề án gồm nhiều khía cạnh từ tổ chức đến hoạt động TGPL và đều lấy người được TGPL làm trung tâm, do đó, các nhiệm vụ, giải pháp đưa ra trong Đề án đều nhằm phục vụ người được TGPL, nâng cao chất lượng hoạt động TGPL để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL.
Tuy nhiên, đổi mới là thay đổi nhận thức, cách làm trước đây, do đó đòi hỏi phải có sự quyết tâm và tương đối mất thời gian mới có thể lan tỏa và thuyết phục tất cả các đối tượng liên quan. Do đó, Bộ Tư pháp đã tổ chức các hội nghị triển khai trên toàn quốc và thông qua các cuộc kiểm tra, tọa đàm tại nhiều địa phương nhằm liên tục lan tỏa các tư tưởng đổi mới, thống nhất về mặt nhận thức bảo đảm cho việc triển khai Đề án hiệu quả. Những khó khăn, vướng mắc đã được giải đáp hoặc tổng hợp, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, từ đó, tạo sự yên tâm, tin tưởng vào việc thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đổi mới hoạt động TGPL.
Song song với việc triển khai các nhiệm vụ, giải pháp của Đề án, để giải quyết triệt để những vấn đề tồn tại của công tác TGPL, Bộ Tư pháp cũng đã nghiên cứu, tham mưu xây dựng Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) để luật hóa những tư tưởng, định hướng đúng đắn từ Đề án đổi mới công tác TGPL và từ yêu cầu thực tiễn. Luật TGPL (sửa đổi) được nghiên cứu, xây dựng từ năm 2016 đến 6/2017 và kết quả ngày 20/6/2017, Luật TGPL sửa đổi được Quốc hội tại kỳ họp thứ 3 khóa XIV đã thông qua với tỷ lệ phiếu rất cao (100% đại biểu tham gia bỏ phiếu tán thành). Điều đó chứng tỏ nhiều tư tưởng đổi mới của Đề án đã phù hợp với yêu cầu thực tiễn nên tất cả các Đại biểu Quốc hội dự họp đã bỏ phiếu thông qua, nâng nhiều nội dung của Đề án đổi mới lên thành quy định Luật. Đến nay, sau hơn 04 năm triển khai Đề án đổi mới công tác TGPL và gần 02 năm triển khai thi hành Luật TGPL năm 2017, cũng là lúc chúng ta cần nhìn lại kết quả những tư tưởng, định hướng đổi mới đã được triển khai trên thực tiễn như thế nào, cụ thể như sau:
a) Tập trung vào bản chất TGPL là vụ việc TGPL giúp đối tượng yếu thế
Có thể thấy rằng, một trong những định hướng đổi mới đúng đắn nhất là việc tập trung thực hiện vụ việc TGPL, trong đó chú trọng vụ việc tham gia tố tụng, bảo đảm cho các đối tượng thuộc diện được TGPL được cung cấp dịch vụ TGPL kịp thời, chất lượng.
Nếu ở giai đoạn trước tháng 6/2015, hoạt động TGPL vẫn còn dàn trải, chưa phản ánh được bản chất của nó là giúp đỡ người được TGPL khi họ có vướng mắc, tranh chấp pháp luật cụ thể thì từ sau 6/2015 đến nay, đặc biệt là từ sau khi Luật TGPL năm 2017 được ban hành, hoạt động này dần chuyển về đúng với bản chất vốn có của nó, không “lấn sân” sang thực hiện việc tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật. Cụ thể, triển khai Đề án và Luật TGPL, từ tháng 6/2015 đến 6/2019, trên toàn quốc thực hiện được 344.691 vụ việc, trong đó có 38.183 vụ việc tham gia tố tụng (chiếm 11%, tăng nhiều so với giai đoạn trước[2]). Số lượng vụ việc tham gia tố tụng tăng hằng năm, cụ thể: năm 2016 là 7.807 vụ, năm 2017 là 10.058 vụ, năm 2018 là 11.860 vụ (năm 2018 đã tăng 52% so với năm 2016), 6 tháng năm 2019 là 5.010 vụ việc tham gia tố tụng (nhiều địa phương có số vụ việc tham gia tố tụng tăng mạnh so với cùng kỳ 2018 như Sơn La, Quảng Ngãi, Hưng Yên tăng 273%; Đồng Tháp tăng 195%...).
Bên cạnh đó, thực hiện giải pháp nêu tại Đề án, từ năm 2016 đến nay, hằng năm Bộ Tư pháp đã ban hành chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng cho Trợ giúp viên pháp lý (TGVPL). Xuất phát từ thực trạng số lượng án, số lượng người thuộc diện được TGPL nhiều mà số lượng vụ việc TGPL bằng hình thức tham gia tố tụng quá ít, việc giao chỉ tiêu đã góp phần thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của công tác TGPL là tập trung vụ việc tham gia tố tụng. Theo đó, các Trợ giúp viên pháp lý sẽ ưu tiên, giành quỹ thời gian cho thực hiện vụ việc - nội hàm chính của TGPL. Việc giao chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng hiện nay chỉ là giao mức tối thiểu (TGVPL được bổ nhiệm dưới 3 năm được giao thực hiện 05 - 09 vụ/năm), sau này khi TGVPL có kinh nghiệm, thực hiện vụ việc như một nghề thì sẽ không cần thiết giao chỉ tiêu nữa.
Đồng thời, để góp phần nâng cao chất lượng hoạt động TGPL và khuyến khích thực hiện nhiều vụ việc TGPL, Bộ Tư pháp đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số 80/2015/NĐ-CP ngày 10/11/2015, theo đó đã tăng mức bồi dưỡng vụ việc tham gia tố tụng cho người thực hiện TGPL và tiếp tục kế thừa tại Nghị định số 144/2018/NĐ-CP ngày 15/12/2018 quy định chi tiết một số điều của Luật TGPL năm 2017. Hơn nữa, từ năm 2017 đến nay, theo Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg ngày 08/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ, kinh phí trung ương đã bổ sung cho các địa phương chưa tự cân đối 46.334.157.244 đồng để thực hiện hỗ trợ cho 7.874 vụ việc tham gia tố tụng có tính chất phức tạp hoặc điển hình. Nhiều địa phương đã điều chỉnh cơ cấu chi theo hướng tăng chi cho vụ việc TGPL so với giai đoạn trước đây. Qua đó đã góp phần khuyến khích, động viên TGVPL, luật sư tích cực thực hiện các vụ việc TGPL trong tố tụng.
Hơn nữa, Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC có quy định cơ chế yêu cầu các cơ quan, người tiến hành tố tụng thông tin hoặc thông báo về vụ việc TGPL mà không phụ thuộc vào người được TGPL có yêu cầu TGPL hay không (quy định trước kia người được TGPL phải có yêu cầu mới chuyển gửi vụ việc), Trung tâm và Chi nhánh khi nhận được thông báo, thông tin TGPL có trách nhiệm kiểm tra diện người được TGPL. Với những quy định này, số lượng vụ việc TGPL đã được tăng lên đáng kể, hạn chế tình trạng bỏ sót người được TGPL. Ngoài ra, Luật TGPL có các điều luật bảo đảm ngân sách[3] và nguồn lực thực hiện TGPL[4], bởi vậy theo nắm bắt của Bộ Tư pháp thì chưa có trường hợp nào bị từ chối thực hiện TGPL do thiếu kinh phí hoặc nhân lực.
Ở giai đoạn trước tháng 6/2015, ở một số tỉnh TGVPL chưa thực hiện vụ việc tố tụng, đến nay tất cả TGVPL đều đã thực hiện vụ việc tố tụng. Triển khai chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng hằng năm do Bộ Tư pháp ban hành cùng với việc tăng mức bồi dưỡng vụ việc tố tụng, các TGVPL đều hăng say thực hiện các vụ việc được phân công, có nhiều TGVPL đã chủ động tiếp cận nhu cầu TGPL của người dân. Kết quả, số vụ việc tham gia tố tụng do TGVPL thực hiện năm sau tăng so với năm trước (năm 2017 tăng 1.077 vụ so với năm 2016, năm 2018 tăng 1.146 vụ so với năm 2017, tương đương 14,5%). Đến hết năm 2018, hầu hết các TGVPL hoàn thành chỉ tiêu (83,3% đạt chỉ tiêu trở lên, trong đó 36,1% đạt chỉ tiêu tốt), số TGVPL không đạt chỉ tiêu ngày càng giảm mặc dù chỉ tiêu do Bộ giao tăng hàng năm (16,7% không đạt chỉ tiêu, giảm 5,8% so với năm 2017). Chất lượng vụ việc TGPL ngày càng tăng lên, có nhiều vụ việc hiệu quả người được TGPL được tuyên mức án giảm hơn so với mức đề nghị trong cáo trạng của Viện kiểm sát hoặc được chuyển khung hình phạt nhẹ hơn hoặc sang tội nhẹ hơn hoặc được tuyên vô tội. Thông qua các vụ việc tham gia tố tụng, kỹ năng, kinh nghiệm và bản lĩnh của đội ngũ người thực hiện TGPL được nâng lên rõ rệt. Có thể nói, đội ngũ TGVPL đang dần khẳng định được vị trí, vai trò của mình, được các cơ quan tiến hành tố tụng, người được TGPL ghi nhận và đánh giá cao. Từ những kết quả từ thực tiễn trong thời gian qua đã củng cố thêm định hướng tập trung vào vụ việc TGPL, nhất là trong vụ việc tham gia tố tụng - chính là thời điểm mà người dân cần sự giúp đỡ của Nhà nước nhất là hoàn toàn đúng đắn.
b) Nâng cao năng lực người thực hiện TGPL
Một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng vụ việc TGPL thời gian trước đây chưa được đánh giá cao là do trình độ, năng lực của người thực hiện TGPL. Nhận diện được vấn đề đó, Bộ Tư pháp đã xác định muốn nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL thì một trong những mục tiêu cần thiết là phải nâng cao chất lượng người thực hiện TGPL.
Từ khi triển khai Đến án đổi mới đến nay, hằng năm ở Trung ương và địa phương đã tổ chức nhiều lớp tập huấn kỹ năng TGPL trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, dân sự, hành chính; kỹ năng TGPL cho người khuyết tật có khó khăn về tài chính; kỹ năng TGPL cho nạn nhân bạo lực phụ nữ, trẻ em gái... cho đội ngũ người thực hiện TGPL. Với các nội dung tập huấn thiết thực, bổ ích do đội ngũ giảng viên giàu kinh nghiệm giảng dạy các lớp tập huấn đã thu hút nhiều lượt người thực hiện TGPL tham gia. Các TGVPL được đào tạo bài bản, tận tâm, được trang bị đầy đủ kỹ năng TGPL cho các đối tượng yếu thế, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL trong các vụ việc cụ thể.
Đặc biệt, theo quy định của Luật TGPL năm 2017, tiêu chuẩn TGVPL đã được nâng cao, quy định ngang bằng với tiêu chuẩn của Luật sư. Thời gian qua, các địa phương đều thực hiện rà soát đội ngũ TGVPL và chuyên viên để đào tạo, bồi dưỡng. Từ năm 2018 đến nay, Bộ Tư pháp đã tổ chức thành công kỳ thi hết tập sự TGPL và qua đó đã công nhận hết tập sự TGPL cho 43 người; tổ chức 02 lớp bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp TGVPL hạng II (hiện đang tổ chức lớp thứ ba), dự kiến trong năm 2019 sẽ tổ chức kỳ thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp TGVPL hạng II. Ngoài ra, từ năm 2017 đến nay, theo Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg ngày 08/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ, ngân sách trung ương đã hỗ trợ kinh để thực hiện tập huấn tăng cường năng lực cho người thực hiện TGPL và hỗ trợ cho 124 viên chức của Trung tâm tại các địa phương có huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn tham gia khóa đào tạo nghề luật sư.
c) Huy động các tổ chức xã hội, luật sư có chất lượng tham gia TGPL
Như đã nêu ở trên, theo tinh thần Đề án đổi mới, Bộ Tư pháp đã tham mưu Chính phủ ban hành quy định tăng mức bồi dưỡng thực hiện vụ việc tham gia tố tụng cho luật sư. Đặc biệt, thể chế hóa tinh thần đổi mới về việc huy động luật sư có kinh nghiệm, trình độ, các tổ chức hành nghề luật sư có uy tín tham gia thực hiện TGPL để người dân có quyền tiếp cận dịch vụ TGPL có chất lượng, Luật TGPL năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết đã quy định việc tham gia TGPL theo hai hình thức là ký hợp đồng và đăng ký tham gia theo các nội dung: điều kiện, tiêu chuẩn và việc thù lao, chi phí khi thực hiện vụ việc TGPL. Như vậy, bên cạnh việc đăng ký tham gia TGPL, Luật quy định thêm cơ chế ký hợp đồng và được chi trả thù lao khi thực hiện TGPL đã tạo thêm cơ hội, thu hút được những tổ chức chất lượng tham gia cung cấp dịch vụ TGPL. Triển khai các quy định về đa dạng hóa chủ thể thực hiện TGPL nêu trên, tính đến hết tháng 6/2019, trên toàn quốc có 33 tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL với các Sở Tư pháp thực hiện TGPL (trong đó có 24 tổ chức hành nghề luật sư, 09 tổ chức tư vấn pháp luật); 161 tổ chức đăng ký tham gia TGPL với các Sở Tư pháp (trong đó có 128 tổ chức hành nghề luật sư, 33 tổ chức tư vấn pháp luật); 511 luật sư ký hợp đồng thực hiện TGPL với các Trung tâm TGPL nhà nước. Bên cạnh đó, theo tinh thần từ Đề án đổi mới và thực hiện quy định từ Luật TGPL năm 2017, hiện nay ở các Sở Tư pháp đã công bố danh sách người thực hiện TGPL và tổ chức thực hiện TGPL tại địa phương, đăng tải trên trang thông tin điện tử của Sở Tư pháp và gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp, đăng tải trên Cổng Thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.
Ngoài ra, để đẩy mạnh đa dạng hóa chủ thể tham gia TGPL, tạo điều kiện cho người được TGPL được thụ hưởng dịch vụ TGPL có chất lượng, Bộ Tư pháp và Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã ký Quy chế phối hợp số 4617/QCPH/BTP-LĐLSVN ngày 28/12/2016 về hoạt động TGPL của luật sư. Đến nay, hầu hết các địa phương ký Quy chế phối hợp với Đoàn luật sư tỉnh/thành phố. Một số địa phương tuy không ban hành Quy chế nhưng có phối hợp khá tốt với Đoàn luật sư địa phương trong công tác TGPL.
d) Tinh gọn tổ chức thực hiện TGPL Nhà nước
Trong bối cảnh thực hiện chủ trương tinh giản biên chế và nâng cao hiệu quả chất lượng dịch vụ sự nghiệp công, ở Trung ương và địa phương đều có các giải pháp kiện toàn tổ chức bộ máy. Từ khi triển khai Đề án đổi mới và đến nay là triển khai Luật TGPL năm 2017, các Trung tâm TGPL đều thực hiện rà soát các Chi nhánh của Trung tâm TGPL đã thành lập căn cứ vào nhu cầu TGPL, nguồn lực thực hiện TGPL và hiệu quả hoạt động. Qua đó, đã giải thể, sáp nhập một số Chi nhánh TGPL không đủ nguồn lực hoặc hoạt động không hiệu quả hoặc địa phương ít nhu cầu TGPL. Trên toàn quốc, tính đến 31/12/2014 có 201 Chi nhánh và đến tháng 6/2019 còn 147 Chi nhánh TGPL. So với giai đoạn trước, đến nay tổ chức của Trung tâm có tinh gọn hơn nhưng tỷ lệ TGVPL trên tổng số biên chế lại tăng lên[5], chất lượng người thực hiện TGPL được nâng cao và hiệu quả vụ việc TGPL cũng tăng như đã nêu ở phần trên.
Ngoài ra, thực hiện nhiệm vụ theo Đề án, ở nhiều địa phương đã không thành lập mới Câu lạc bộ TGPL, đối với các Câu lạc bộ TGPL đang tồn tại nhưng hoạt động không hiệu quả thì giải thể hoặc sáp nhập với các Câu lạc bộ khác ở địa phương. Đến nay, các văn bản về TGPL hiện hành không còn điều chỉnh về Câu lạc bộ TGPL.
đ) Tăng cường truyền thông về công tác TGPL, ứng dụng công nghệ thông tin và thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực TGPL
Mặc dù công tác TGPL được triển khai từ năm 1997 đến nay nhưng vẫn còn nhiều đối tượng được hưởng chính sách TGPL chưa biết đến hoạt động này và quyền được tiếp cận dịch vụ TGPL miễn phí của Nhà nước. Do đó, để tăng cường nhận thức về TGPL của người dân, nhất là ở cơ sở, trong thời gian qua ở trung ương và địa phương đã triển khai nhiều phương thức truyền thông khác nhau như thông qua Bảng thông tin TGPL, Hộp tin về TGPL, tờ gấp TGPL, chuyên trang, chuyên mục, phóng sự về hoạt động TGPL hoặc vụ việc TGPL điển hình trên các đài, báo, truyền hình... Đồng thời, Trang thông tin điện tử TGPL đã được nâng cấp, hoàn thiện, kịp thời cung cấp văn bản chỉ đạo, điều hành của Trung ương và địa phương, là diễn đàn rộng rãi để trao đổi thông tin, kinh nghiệm, kỹ năng TGPL trên toàn quốc. Đây cũng là một kênh thông tin để người dân biết đến quyền được TGPL, tổ chức và hoạt động TGPL. Hơn nữa, từ năm 2016 đến nay, theo Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg ngày 08/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ, ngân sách trung ương đã bổ sung kinh phí cho 37 địa phương có huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn thiết lập đường dây nóng về TGPL để người dân liên hệ khi có nhu cầu TGPL.
Bên cạnh đó, để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong toàn hệ thống tổ chức TGPL, trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đã đưa Hệ thống quản lý tổ chức và hoạt động TGPL đi vào hoạt động. Thông qua đó cho phép nắm bắt, theo dõi, lưu giữ, tra cứu và quản lý được toàn bộ các thông tin về tổ chức và hoạt động TGPL bảo đảm kịp thời, chính xác, tiết kiệm thời gian và chi phí, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác tổng hợp, thống kê, báo cáo và theo dõi, đánh giá chất lượng TGPL, từ đó đề xuất những chính sách, giải pháp TGPL phù hợp. Đồng thời, việc ứng dụng Hệ thống này sẽ là cầu nối giữa các cơ quan quản lý nhà nước về TGPL với các tổ chức thực hiện TGPL từ Trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, để việc vận hành đạt hiệu quả cao, trong thời gian tới cần tiếp tục hoàn thiện Hệ thống phần mềm này đáp ứng yêu cầu thực tế.
Đồng thời, trong bối cảnh Nhà nước đang tập trung đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, trong thời gian qua lĩnh vực TGPL cũng đã thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là người được TGPL. Với số lượng thủ tục hành chính không nhiều và được phân cấp hoàn toàn về địa phương thực hiện (chủ yếu là cấp tỉnh) nên thủ tục hành chính trong lĩnh vực TGPL về cơ bản đã đáp ứng mục đích, yêu cầu Nghị quyết số 30c/NQ-CP của Chính phủ, Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04/02/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016-2020, Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 04/7/2017 của Chính phủ về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Đánh giá chung:
Có thể nói rằng, việc Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 01/6/2015 phê duyệt Đề án đổi mới công tác TGPL đã tạo cơ sở cho việc đổi mới công tác TGPL nhằm mang lại lợi ích cho Nhà nước, xã hội và trực tiếp là đối tượng được thụ hưởng dịch vụ TGPL. Các nhóm nhiệm vụ, giải pháp đều xuất phát từ quan điểm lấy người được TGPL làm trung tâm. Mặc dù, sau khi Đề án được ban hành, việc triển khai Đề án cũng có gặp một số khó khăn, trở ngại trong nhận thức. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo quyết liệt của Lãnh đạo Bộ và sự vào cuộc sát sao của Cục TGPL, đến nay, các địa phương đã tích cực triển khai Đề án đổi mới và thực tiễn đã chứng minh hiệu quả công tác TGPL đã nâng lên một cách rõ rệt. Một số nhiệm vụ, giải pháp liên quan đến mô hình tổ chức không triển khai thực hiện theo Đề án đổi mới nhưng mô hình tổ chức của hệ thống TGPL đã được nghiên cứu và quy định rất rõ trong Luật TGPL năm 2017.
Từ những kết quả điểm qua như đã nêu ở phần trên, có thể khẳng định, việc đổi mới công tác TGPL trên thực tế trong thời gian qua là cần thiết và đã có những thành công mang tính đột phá. Nhiều các nhóm giải pháp, nhiệm vụ đã được triển khai hiệu quả, "hình ảnh" công tác TGPL trong mấy năm qua đã đổi mới phù hợp với bản chất của dịch vụ TGPL, góp phần bảo đảm tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL. Vì vậy, các định hướng đúng đắn của Đề án đổi mới đã được thể hiện trong Luật TGPL, các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành và cần tiếp tục triển khai trên thực tế. Đến nay, cơ sở pháp lý cho sự phát triển bền vững của công tác TGPL đã tương đối đầy đủ. Các địa phương đều đã thể hiện sự nhất trí, đồng tình cao đối với chính sách TGPL hiện hành. Công tác TGPL đã được ổn định, dần đi vào chiều sâu, thực chất, bảo đảm quyền lợi tốt nhất cho các đối tượng yếu thế trong các vụ án hình sự, dân sự... được người dân tin tưởng./.
Thanh Trịnh
[1] Số liệu năm 2016:
- Số lượng người thuộc diện được hưởng TGPL theo Luật TGPL 2006 khoảng 17 triệu người.
- Số lượng người thuộc diện được hưởng TGPL theo Luật TGPL 2017 khoảng 50 triệu người.
[2] theo báo cáo tổng kết 08 năm triển khai thi hành Luật TGPL từ năm 2007 - 2014, số vụ việc tham gia tố tụng chiếm 5,6% tổng số vụ việc TGPL.
[3]Điều 5 quy định về nguồn tài chính cho công tác TGPL
[4]Điều 14 quy định về hợp đồng thực hiện TGPL (thậm chí có thể ký hợp đồng với luật sư, tổ chức hành nghề luật sư ngoài tỉnh nếu địa phương không đáp ứng được)
[5] năm 2014, cả nước có 1.313 người làm việc tại các Trung tâm TGPL với 572 trợ giúp viên pháp lý và 741 người làm việc khác; đến hết năm 2018, cả nước có 1.218 người làm việc tại các Trung tâm TGPL với 645 trợ giúp viên pháp lý và 573 người làm việc khác.
Nguồn: https://tgpl.moj.gov.vn/Pages/hoi-nhap-phat-trien.aspx?ItemID=36&l=NghiencuuveTGPL