Vai trò của kiểm soát xã hội trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay
00:23 24/07/2021
Quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về vị trí, vai trò của kiểm soát xã hội trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng
Tham nhũng là hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của bộ máy nhà nước. Tham nhũng xảy ra ở tất cả các quốc gia trên thế giới, không phụ thuộc vào chế độ chính trị do một đảng cầm quyền hay đa đảng thay nhau cầm quyền, không kể giàu nghèo, đang ở trình độ phát triển như thế nào. Nó xảy ra ở mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, phát triển và tồn tại hằng ngày, hằng giờ, len lỏi vào mọi mặt của đời sống xã hội. Ở Việt Nam, khái niệm tham nhũng được quy định tại khoản 1, Điều 3 trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2019: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”. Tuy khái niệm tham nhũng còn chưa đồng nhất, song về cơ bản, quan điểm của Việt Nam đã trùng hợp với quan niệm phổ biến trên thế giới. Tham nhũng là hành vi lạm dụng quyền lực, nó nảy sinh và gắn chặt với quá trình vận hành và sử dụng quyền lực công. Vì vậy, đấu tranh phòng, chống tham nhũng được coi là đấu tranh chống lạm dụng, tha hóa quyền lực công, nhằm hoàn thiện bộ máy và bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội, bảo đảm quyền lực của nhân dân, do nhân dân ủy thác không bị lạm dụng. Với một đảng cầm quyền, mục tiêu chống tham nhũng của Việt Nam còn là bảo đảm sự trong sạch, uy tín và sức chiến đấu của Đảng, chống sự tha hóa trong tổ chức đảng và đảng viên.
Kiểm soát xã hội là cơ chế mà dựa vào đó, xã hội và các bộ phận của nó (các nhóm, các tổ chức) bảo đảm việc tuân thủ các chế định xã hội, ngăn ngừa những hành vi gây tổn thất cho hoạt động của hệ thống xã hội, cho bộ máy và công việc quản lý xã hội. Công việc kiểm soát xã hội là do cơ quan nhà nước, các tổ chức, cũng như các nhóm xã hội tiến hành, dưới nhiều hình thức: sự kiểm soát lẫn nhau của những người tham gia vào quá trình kiểm soát, dư luận xã hội (chẳng hạn như lên án về mặt đạo đức, tẩy chay không tiếp xúc)... Việc thu hút đông đảo quần chúng tham gia vào hoạt động của các cơ quan kiểm soát xã hội là cần thiết có tác dụng tích cực(1). Vì vậy, để nâng cao hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng rất cần có kiểm soát xã hội với sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận, báo chí, doanh nghiệp, các hiệp hội doanh nghiệp - ngành nghề, ban thanh tra nhân dân và đông đảo quần chúng nhân dân.
Trong chế độ dân chủ và pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì quyền lực nhà nước không phải quyền lực tự có của nhà nước mà quyền lực được nhân dân ủy quyền, nhân dân giao quyền. Vì thế, tất yếu nảy sinh đòi hỏi chính đáng và tự nhiên phải kiểm soát quyền lực nhà nước(2). Theo pháp luật hiện hành của nước ta đã hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bằng các phương thức, như giám sát tối cao của Quốc hội đối với hoạt động của bộ máy nhà nước; thanh tra, kiểm tra trong bộ máy hành pháp; giám sát, kiểm tra của cơ quan cấp trên đối với cơ quan cấp dưới; giám đốc thẩm trong hoạt động xét xử của tòa án… Tuy nhiên, chỉ có cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong nói trên thì chưa đầy đủ và chưa phát huy được hiệu lực, hiệu quả như mong muốn. Tình trạng lạm dụng quyền lực nhà nước dẫn đến tiêu cực, tham nhũng trong bộ máy nhà nước ngày càng phức tạp, khiến lòng dân không yên. Vì thế, kiểm soát quyền lực trong nhà nước pháp quyền chỉ có thể đạt được khi có một cơ chế và điều kiện đầy đủ, cần thiết cho sự vận hành của nó trên thực tế. Cơ chế đó phải bao gồm cả kiểm soát từ bên trong (các cơ quan nhà nước) lẫn kiểm soát từ bên ngoài (kiểm soát xã hội) gồm kiểm soát của: Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí, người dân, doanh nghiệp và các hiệp hội ngành nghề trong tổ chức quyền lực nhà nước và đều hướng tới việc bảo đảm cho quyền lực nhà nước được sử dụng đúng mục đích, thực thi có hiệu lực, hiệu quả.
Sự giám sát từ phía xã hội có vai trò làm hạn chế tối đa sự lạm dụng quyền lực nhà nước vì mục đích cá nhân. Nguồn gốc sâu xa của tệ tham nhũng, là do quyền lực luôn có nguy cơ bị “tha hóa”, trong khi tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực nhà nước; mặt khác, quyền lực nhà nước là của nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước suy cho cùng là giao cho những người cụ thể thực thi, “mà con người thì luôn chịu ảnh hưởng của các loại tình cảm và dục vọng… khiến cho lý tính đôi khi bị chìm khuất”(3). Đặc biệt là khi lý tính bị chi phối bởi các dục vọng, thói quen hay tình cảm thì khả năng sai lầm trong việc thực thi quyền lực nhà nước càng lớn. Do đó, việc tổ chức và sử dụng quyền lực nếu không có những rào chắn, sự kiểm soát thì quyền lực rất dễ bị thao túng, sử dụng vì mục đích cá nhân. Trong một xã hội dân chủ, sự kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía xã hội được mở rộng, khi mọi hoạt động của nhà nước đều phải công khai, minh bạch và nằm trong tầm kiểm soát của xã hội, mọi sự lạm quyền hay tùy tiện của nhà nước thông qua hành vi của công chức nhà nước sẽ ít có cơ hội diễn ra và do đó, tham nhũng cũng khó nảy sinh. Từ góc độ này có thể thấy rằng, ở Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác, sự kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía xã hội là đương nhiên, tất yếu, xuất phát từ chính nguồn gốc ra đời của nhà nước.
C. Mác và Ph. Ăng-ghen trong khi hình dung một xã hội mới là xã hội xã hội chủ nghĩa để thay thế các chế độ cũ (chế độ người bóc lột người), thì một trong những vấn đề được đặt ra là phải tổ chức một bộ máy nhà nước như thế nào để có thể khắc phục được tệ nạn tham nhũng như một căn bệnh thâm căn, cố đế của các bộ máy nhà nước cũ, để thực sự trở thành một nhà nước của nhân dân. V.I. Lê-nin cho rằng, tham nhũng chính là kẻ thù bên trong, những kẻ thù nguy hiểm nhất, khi mà chủ nghĩa xã hội còn đang trong “thời kỳ thoát thai, quá độ”, khi mà những dấu vết của xã hội cũ vẫn còn, thì những hành vi tham nhũng vẫn còn, vẫn tồn tại không những trong các cơ quan xô-viết, mà trong cả các cơ quan của Đảng nữa. Ở Việt Nam, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, dù Nhà nước dân chủ nhân dân mới ra đời nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất coi trọng việc chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, chống quan liêu. Hồ Chí Minh coi tham ô, tham nhũng, lãng phí là tội lỗi đê tiện nhất. Người viết: “… Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công làm của tư. Đục khoét của nhân dân. Ăn bớt của bộ đội. Tiêu ít mà khai nhiều…”(4).
Kế thừa quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ kinh nghiệm phát huy vai trò của nhân dân trong các cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước trong hơn 90 năm qua, Đảng ta luôn coi trọng công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, đặc biệt là từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay. Điều đó được thể hiện trong các văn kiện Đại hội của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng... Trong các quan điểm, chủ trương của Đảng thì phát huy vai trò của xã hội, của nhân dân trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng được coi là một biện pháp quan trọng. Điều này thể hiện ngay trong Nghị quyết số 14-NQ/TW, ngày 15-5-1996, của Bộ Chính trị, “Về lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng” - Nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Đảng ta về đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã chỉ rõ vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, quần chúng nhân dân và báo chí trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, “… nêu cao trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội, động viên tính tích cực của nhân dân, phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong đấu tranh chống tham nhũng...”(5). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII tiếp tục khẳng định vai trò của nhân dân, của báo chí trong phòng, chống tham nhũng và “... chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng nêu gương “người tốt, việc tốt” giới thiệu kinh nghiệm của các điển hình tiên tiến; lên án cái xấu, cái ác, tích cực đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu”(6). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa IX cũng chỉ rõ: “Đổi mới cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm những điều kiện cần thiết và thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân các cấp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo luật định; đề cao vai trò giám sát, hướng mạnh về cơ sở…”(7).
Đại hội X của Đảng đặt nhiệm vụ đấu tranh chống tham nhũng là một nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị. Theo đó, phải “Phát huy vai trò giám sát của nhân dân, của Mặt trận, các đoàn thể và của các cơ quan thông tin đại chúng”; “Thiết lập cơ chế khuyến khích, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người phát hiện và đấu tranh chống tham nhũng” (8). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa X “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí” đã đề ra 5 quan điểm chỉ đạo đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, trong đó, vai trò của xã hội được coi là định hướng quan trọng. Đó là: “Đề cao vai trò của báo chí trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí;… Bảo vệ, khen thưởng, động viên những người làm báo tích cực, dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí…Tăng cường công tác giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức quần chúng; Nâng cao hiệu quả của thanh tra nhân dân..” (9) và “… hình thành cơ chế nhân dân giám sát hoạt động của cán bộ, công chức…”(10). Nghị quyết Đại hội XI, XII của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm “Phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng và của nhân dân trong đấu tranh phòng; chống tham nhũng, lãng phí”(11). Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị về việc ban hành “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội” đã nêu rõ mục đích của giám sát, xác định chủ thể giám sát là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội từ Trung ương đến cơ sở; đối tượng giám sát là các cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến cơ sở; cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước.
Thể chế hóa quan điểm của Đảng, tại Khoản 2, Điều 4, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam... chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình” và “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền” (Điều 8, Hiến pháp năm 2013). “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước,... Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động” (Điều 9). Và “… Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” (Điều 28, Hiến pháp năm 2013).
Khuyến khích sự tham gia và phát huy vai trò của xã hội luôn được Đảng và Nhà nước ta coi là một trong những biện pháp cơ bản trong đấu tranh chống tham nhũng và được thể chế hóa trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Văn bản quan trọng đầu tiên được kể đến là Việt Nam tham gia đàm phán, xây dựng, chính thức phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng vào ngày 30-6-2009 và chính thức có hiệu lực từ ngày 18-9-2009. Đây được coi là sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng thể hiện quyết tâm và cam kết của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế trong công cuộc phòng, chống tham nhũng. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung các năm 2007, 2012), Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã tạo lập khung pháp lý quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta. Các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng đã tạo ra môi trường thể chế ngày càng công khai, minh bạch; từng bước tăng cường sự tham gia của người dân trong phòng, chống tham nhũng; cơ chế kiểm soát tài sản đối với cán bộ, công chức, viên chức và chế độ công vụ ngày càng được quan tâm; việc xử lý người có hành vi tham nhũng và tài sản tham nhũng cũng được chú trọng và nâng cao hiệu quả; bộ máy cơ quan phòng, chống tham nhũng bước đầu được củng cố, kiện toàn. Bên cạnh đó, hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp và gián tiếp quy định về phòng, chống tham nhũng đã được ban hành và phát huy tác dụng trong thực tiễn, như Luật Thanh tra năm 2010; Luật Tố cáo năm 2018; Luật Khiếu nại năm 2011; Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009 và 2015; Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, sửa đổi, bổ sung năm 2015; Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015; Luật Tiếp công dân năm 2013; Luật Tiếp cận thông tin năm 2016; Nghị quyết số 21/NQ-CP, ngày 12-5-2009, của Chính phủ, “Ban hành chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020”; Nghị định số 47/2007NĐ-CP, ngày 27-3-2007, “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng về vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng”; Nghị định số 90/2013/NĐ-CP, ngày 8-8-2013, “Quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao”; Chỉ thị số 10/ CT-TTg, ngày 12-6-2013, của Thủ tướng Chính phủ, “Về việc đưa nội dung phòng, chống tham nhũng vào giảng dạy tại các cơ sở giáo dục - đào tạo từ năm học 2013 - 2014”...
Như vậy có thể thấy, dù quy định trực tiếp hay gián tiếp, Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật đều nhất quán thừa nhận, khẳng định vai trò của xã hội, của công dân trong phòng, chống tham nhũng. Đây là một biểu hiện tiến bộ của dân chủ, vì sự kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía xã hội là một điều kiện để phòng ngừa tham nhũng từ xa, hiệu quả. Điều này khẳng định, ở Việt Nam, vai trò của xã hội trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng không chỉ xuất phát từ lý thuyết về sự kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía xã hội mà còn xuất phát từ bản chất của Nhà nước Việt Nam theo ghi nhận của Hiến pháp “là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Khi lợi ích của Đảng đồng thời được coi là lợi ích của Nhà nước và của nhân dân thì hành vi tham nhũng làm tổn hại đồng thời đến lợi ích của Đảng, Nhà nước và toàn thể xã hội. Do vậy, tham nhũng là kẻ thù chung, chống tham nhũng không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, của Đảng, mà là nhiệm vụ của toàn xã hội.
Thực trạng của kiểm soát xã hội trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng
Theo quy định của pháp luật, kiểm soát xã hội trong phòng, chống tham nhũng gồm có bốn chủ thể: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận; cơ quan báo chí, nhà báo; doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề; công dân, ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư cộng đồng. Từ vị trí của mình trong hệ thống chính trị Việt Nam, thời gian qua, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, doanh nghiệp và các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề, báo chí và các đoàn thể nhân dân có vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Thứ nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội, góp phần không nhỏ vào kết quả của công cuộc phòng, chống tham nhũng thời gian qua.
Với vai trò là tổ chức chính trị - xã hội lớn nhất Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc luôn đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động chính trị - xã hội, hỗ trợ Nhà nước thực hiện có hiệu quả nhiều chính sách, pháp luật thông qua các hoạt động tuyên truyền, động viên nhân dân tích cực tham gia vào việc phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng, giám sát hoạt động của cán bộ, công chức, viên chức và các cơ quan nhà nước. Việc thực hiện các chức năng này của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên có thể độc lập hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng, nhất là các cơ quan phòng, chống tham nhũng chuyên trách. Trong thời gian qua, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng và Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ban hành các văn bản phối hợp nhằm đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục nhân dân và các tổ chức thành viên của Mặt trận thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Động viên các tầng lớp nhân dân, hội viên, đoàn viên tích cực phát hiện, tố cáo những hành vi tham nhũng, có biện pháp bảo vệ và hình thức khen thưởng xứng đáng đối với những người đã có hành động dũng cảm phát hiện, tố cáo những hành vi tham nhũng đúng, chính xác.
Hoạt động phòng, chống tham nhũng của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể tuy không mang tính chuyên nghiệp như các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng với ưu thế là có hệ thống rộng khắp, phương pháp mềm dẻo nên có nhiều cơ hội và điều kiện để thu hút sự tham gia rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Trong những năm qua, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Chương trình hành động thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí giai đoạn 2018 - 2021. Tham gia xây dựng và triển khai thực hiện quy định của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”. Phối hợp với Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức thành công hai Giải “Báo chí với công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí” năm 2018, 2019; năm 2020 bước sang năm thứ 3 tổ chức Giải.
Hoạt động giám sát công tác phòng, chống tham nhũng của Mặt trận Tổ quốc các cấp được tiến hành đồng bộ với hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, tập trung vào các lĩnh vực quản lý khó, phức tạp, nhạy cảm, dễ phát sinh tham nhũng, như quản lý đất đai, đầu tư xây dựng, quản lý tài sản nhà nước, đền bù giải phóng mặt bằng; tái định cư khi thu hồi đất, cấp phép xây dựng, kinh doanh,... Trong giai đoạn 2014 - 2019, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh chủ trì và tham gia giám sát liên ngành được 4.093 cuộc; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp huyện chủ trì giám sát được 22.679 cuộc; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã chủ trì giám sát được 466.012 cuộc; Ủy ban Mặt trận các cấp đã tổ chức được 86.872 cuộc phản biện xã hội về nhiều chủ trương, chính sách, chương trình, đề án, dự thảo luật quan trọng; trong đó: Ủy ban Mặt trận cấp tỉnh chủ trì phản biện xã hội được 4.059 cuộc; Ủy ban Mặt trận cấp huyện chủ trì phản biện được 15.166 cuộc; Ủy ban Mặt trận cấp xã chủ trì phản biện xã hội được 69.710 cuộc (12). Tuy nhiên, hoạt động này cũng chịu những thách thức nhất định, do không mang tính quyền lực, nên hoạt động giám sát, phản biện của Mặt trận có những hạn chế và thường chịu “lép vế” trong các quan hệ với các cơ quan nhà nước là đối tượng chịu sự kiểm tra, giám sát; chưa tổ chức được nhiều chương trình giám sát độc lập; chưa có cơ chế, quy trình thích hợp phát huy vai trò giám sát thường xuyên của nhân dân. Hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc mới chỉ tập trung nhiều ở cấp Trung ương và cấp tỉnh.
Thứ hai, đề cao vai trò, trách nhiệm, hiệu quả của báo chí và truyền thông trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí nhấn mạnh, việc thực hiện tốt công tác truyền thông về phòng, chống tham nhũng, đề cao vai trò, trách nhiệm của báo chí trong phòng, chống tham nhũng; khắc phục tình trạng thông tin một chiều, bảo vệ, khen thưởng, động viên những người làm báo tích cực, dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng; xử lý nghiêm việc đưa tin sai sự thật, vu cáo, bịa đặt gây hậu quả xấu. Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 cũng chỉ rõ, một trong những giải pháp nhằm nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của xã hội trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng là đẩy mạnh và đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, nhằm nâng cao nhận thức cho nhân dân về biểu hiện, tác hại của tham nhũng; phát huy vai trò của báo chí, bảo đảm cung cấp thông tin kịp thời, chính xác về các vụ việc tham nhũng cho các cơ quan báo chí. Điều 75 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định các cơ quan báo chí, nhà báo có trách nhiệm đấu tranh chống tham nhũng, khi đưa tin về hoạt động phòng, chống tham nhũng và vụ việc tham nhũng phải khách quan, trung thực, giữ quy tắc đạo đức nghề nghiệp.
Thời gian qua, báo chí đã thể hiện tốt vai trò tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về phòng, chống tham nhũng. Tình hình tham nhũng, kết quả của công tác phòng, chống tham nhũng, hoạt động của các cơ quan thực thi pháp luật, việc xử lý những vụ án tham nhũng trọng điểm được báo chí thông tin thường xuyên. Báo chí đã phản ảnh và thể hiện rõ quyết tâm chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta, góp phần tạo được sự đồng thuận của nhân dân trong cuộc đấu tranh này bằng nhiều hình thức tuyên truyền phong phú, đa dạng, như thông qua chuyên mục riêng, các tọa đàm về pháp luật, giao lưu trực tuyến, cuộc thi tìm hiểu về phòng, chống tham nhũng. Chủ động lồng ghép nội dung phòng, chống tham nhũng với các nội dung tuyên truyền, giáo dục khác như học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh... và đã mang lại những kết quả nhất định. Không chỉ làm nhiệm vụ đưa tin, báo chí còn là diễn đàn để các tầng lớp nhân dân thông tin, trao đổi, phản ánh, qua đó thể hiện nhận thức, quan điểm, thái độ đối với thực trạng tham nhũng, kết quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng hoặc đối với các vụ việc, hành vi tham nhũng cụ thể.
Thực tế cho thấy, các hành vi tham nhũng xảy ra trong nội bộ cơ quan, đơn vị nhà nước dù bị phát hiện nhưng thường ít bị tố cáo, vì cán bộ, công chức, viên chức trong cùng cơ quan, hệ thống mang tâm lý sợ bị trù dập, lo kẻ tham nhũng có “ô dù” bao che hoặc nể nang, né tránh, sợ mất thành tích chung, nên vụ, việc thường bị ỉm đi hoặc xử lý nội bộ. Cho nên, báo chí với vị trí và tư cách khách quan, là lực lượng đi đầu trong đấu tranh và phát hiện vụ, việc tham nhũng, phanh phui trước công luận, khiến các cơ quan chức năng không thể không quan tâm xử lý.
Hoạt động của báo chí đã tạo ra áp lực dư luận khiến các cơ quan chức năng phải tăng cường trách nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử hành vi tham nhũng; là công cụ hữu hiệu trong việc thúc đẩy việc chỉ đạo, xem xét, xử lý hành vi tham nhũng bảo đảm kịp thời, chính xác, khách quan và đúng pháp luật. Nhiều vụ việc tham nhũng lớn, được báo chí phản ánh đã được Chính phủ, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng chỉ đạo điểm các vụ án gần đây, như các vụ án “Vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng” xảy ra tại Ngân hàng Phương Nam; “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí; Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” xảy ra tại Công ty Hải Thành, Quân chủng Hải Quân; “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí” liên quan đến dự án 8-12, Lê Duẩn, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh; “Vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng”, xảy ra tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV) và một số công ty có liên quan. Khẩn trương điều tra, xử lý nghiêm minh sai phạm của các tổ chức, cá nhân liên quan trong các vụ án: “Buôn lậu; vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng; rửa tiền; vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Công ty Nhật Cường và một số đơn vị liên quan; “Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi; “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản của Nhà nước gây thất thoát, lãng phí; tham ô tài sản” xảy ra tại Tổng Công ty nông nghiệp Sài Gòn (SAGRI); “Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng; vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí” xảy ra tại Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 - Công ty Gang thép Thái Nguyên; “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng; buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh; lợi dụng chức vụ, quyền trong khi thi hành công vụ” xảy ra tại Cục Quản lý dược, Bộ Y tế, Công ty VN Pharma và các cơ quan, đơn vị liên quan (13)...
Thứ ba, trách nhiệm của doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề.
Chiến lược phòng, chống tham nhũng quốc gia đến năm 2020 xác định, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm phòng, chống tham nhũng thông qua việc xây dựng và thực hiện văn hóa kinh doanh lành mạnh, phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để ngăn chặn và phát hiện kịp thời hành vi nhũng nhiễu, đòi hối lộ của cán bộ, công chức. Điều 76 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định: Doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm tuyên truyền, động viên người lao động, thành viên, hội viên của mình thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; tổ chức, thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện tham nhũng; kịp thời thông báo với các cơ quan có thẩm quyền về hành vi tham nhũng; có trách nhiệm kiến nghị hoàn thiện chính sách về phòng, chống tham nhũng; tổ chức các diễn đàn để trao đổi, cung cấp thông tin, phục vụ công tác phòng, chống tham nhũng.
Trên thực tế, các doanh nghiệp thường là nạn nhân của tệ tham nhũng, sách nhiễu từ những người có chức vụ, quyền hạn. Mặt khác, nhiều doanh nghiệp nhằm đạt được lợi nhuận hoặc lợi thế trong kinh doanh thường tìm mọi cách để lót tay, hối lộ cán bộ, công chức. Bên cạnh đó, trong bản thân các doanh nghiệp cũng luôn tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, làm thất thoát tài sản của Nhà nước, của doanh nghiệp, làm tổn hại các quan hệ lành mạnh trong nội bộ, làm xấu đi môi trường kinh doanh, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội, ảnh hưởng đến những doanh nghiệp làm ăn chân chính.
Trong thời gian qua, các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề đã có những hoạt động cụ thể, thiết thực, chủ yếu là tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống tham nhũng, xây dựng và thực hiện quy tắc ứng xử trong hoạt động của doanh nghiệp, từng bước kiến tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, góp phần vào nỗ lực chung phòng, chống tham nhũng của toàn xã hội. Việc thực hiện Quy chế Dân chủ, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy tắc ứng xử trong kinh doanh, nhằm xác định những tiêu chuẩn hành xử trong nghề nghiệp, trong doanh nghiệp và với đối tác kinh doanh được coi là một trong các biện pháp phòng ngừa tham nhũng khá hiệu quả. Coi đây là tiền đề để xây dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh, phi tham nhũng.
Thứ tư, thúc đẩy mạnh mẽ vai trò của công dân, ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư của cộng đồng trong phòng, chống tham nhũng.
Trong xã hội hiện nay, mỗi người dân Việt Nam thường là thành viên của ít nhất một tổ chức xã hội trong cộng đồng. Có 75% số công dân Việt Nam là thành viên của ít nhất một tổ chức, 62% là thành viên của 2 tổ chức trở lên, bình quân, mỗi người dân tham gia từ 2 đến 3 tổ chức (14). Tính liên kết cộng đồng như vậy đã tạo ra nhiều cơ hội cho người dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Ngoài việc tự mình đấu tranh chống tham nhũng, người dân có thể thông qua tổ chức mà mình là thành viên hoặc ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư cộng đồng để phản ánh các hiện tượng tham nhũng. Kết quả giải quyết vụ việc được thông báo đến người dân thông qua cơ quan, tổ chức đã tiếp nhận ý kiến phản ánh. Nhiều người dân đã chủ động thông qua tổ chức của mình giám sát đối với các hoạt động của bộ máy nhà nước, nhất là ở chính quyền cơ sở, thực hiện tốt các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng và Pháp lệnh Dân chủ ở cơ sở.
Vai trò của ban thanh tra nhân dân thể hiện chủ yếu thông qua hoạt động giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cơ sở. Hiện nay, cả nước có 10.956 ban thanh tra nhân dân và 12.946 ban giám sát đầu tư cộng đồng. Trong 5 năm qua (2014 - 2019), ban thanh tra nhân dân thực hiện được 189.461 cuộc giám sát, giá trị tiền thu hồi đạt trên 6 tỷ đồng; ban giám sát đầu tư cộng đồng thực hiện 173.929 cuộc giám sát, giá trị tiền thu hồi đạt gần 12 tỷ đồng. Những địa phương có ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư cộng đồng hoạt động hiệu quả là thành phố Hà Nội, Đà Nẵng, các tỉnh: Bắc Giang, Quảng Ninh, Nghệ An, An Giang… (15).
Nhìn chung, hoạt động của ban thanh tra nhân dân đã góp phần tích cực trong phòng, chống tham nhũng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở các cơ quan, đơn vị, địa phương vì nó khơi dậy không khí dân chủ và thực thi dân chủ; lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và trực tiếp tham gia giải quyết kịp thời những bức xúc trong nhân dân. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, hoạt động của ban thanh tra nhân dân ở hầu hết các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước còn hình thức, kém hiệu quả, mờ nhạt. Vẫn lúng túng về nội dung, phương thức hoạt động; chất lượng và hiệu quả hoạt động chưa cao. Các quy định pháp luật về trách nhiệm và mối quan hệ phối hợp chưa rõ ràng. Năng lực của các thành viên ban thanh tra nhân dân nhìn chung còn bất cập so với yêu cầu thực tiễn...
Để tiếp tục nâng cao vai trò của kiểm soát xã hội trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng
Hơn 10 năm qua, công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, quyết liệt của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự giám sát của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, cơ quan báo chí, nhân dân, công tác phòng, chống tham nhũng tiếp tục được tăng cường, đẩy mạnh với cách làm bài bản, quyết liệt, đồng bộ, đi vào chiều sâu và hiệu quả hơn, được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan nghênh, đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao. Qua đó, tiếp tục khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong công tác phòng, chống tham nhũng, giữ vững niềm tin của nhân dân. Tuy tham nhũng đang từng bước được kiềm chế và có chiều hướng thuyên giảm nhưng vẫn còn phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực và ngày càng tinh vi hơn, nhất là tình trạng “tham nhũng vặt”, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp trong giải quyết công việc để vụ lợi. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, như tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước còn bất cập, kém hiệu quả; sự chỉ đạo của các tổ chức đảng và cơ quan nhà nước trong công tác phòng, chống tham nhũng tại các cấp, các ngành chưa chặt chẽ, quyết liệt; việc xử lý tham nhũng còn chưa nghiêm; chính sách, pháp luật chưa đầy đủ, đồng bộ; việc huy động sự vào cuộc của nhân dân, báo chí, doanh nghiệp, các cơ quan truyền thông, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận chưa được quan tâm đúng mức trên cả hai phương diện xây dựng thể chế và tổ chức thực tiễn.
Nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác phòng, chống tham nhũng, Đảng và Nhà nước ta cần tiếp tục hoàn thiện một cách căn bản thể chế, chính sách, pháp luật về đấu tranh phòng, chống tham nhũng nói chung; thể chế, chính sách, pháp luật về phát huy vai trò của xã hội trong phòng, chống tham nhũng nói riêng; đồng thời, triển khai đồng bộ và quyết liệt những biện pháp trước mắt cũng như lâu dài nhằm phát huy vai trò của kiểm soát xã hội trong công tác này. Phát huy vai trò của kiểm soát xã hội trong phòng, chống tham nhũng phải được coi là biện pháp căn bản và mang tính quyết định đến hiệu quả của cuộc đấu tranh này trong giai đoạn hiện nay. Theo đó, cần tập trung thực hiện một số giải pháp trọng tâm sau:
Một là, nâng cao vị trí, vai trò và sự phối kết hợp giữa Nhà nước và xã hội trong phòng, chống tham nhũng.
Để nâng cao hơn nữa vai trò của xã hội trong phòng, chống tham nhũng, đòi hỏi trách nhiệm, sự nỗ lực và tích cực từ cả hai phía, từ các cơ quan nhà nước và xã hội. Bản thân các cơ quan nhà nước cần nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của xã hội trong công tác này, những tác động, hiệu quả to lớn của việc huy động đông đảo các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và đông đảo quần chúng nhân dân tham gia giám sát; phát hiện và tố cáo các hành vi tham nhũng trong bộ máy công quyền. Đồng thời, bản thân mỗi tổ chức xã hội và người dân cũng phải thấy rõ trách nhiệm, vai trò, thực hiện một cách tự giác, có trách nhiệm những quyền và nghĩa vụ của mình trong cuộc đấu tranh cam go này.
Hai là, hoàn thiện chính sách, pháp luật nhằm phát huy vai trò của xã hội trong phòng, chống tham nhũng.
Nhằm phát huy vai trò của xã hội trong phòng, chống tham nhũng, các cơ quan nhà nước cần thường xuyên rà soát, bổ sung, sửa đổi, ban hành mới những quy định bảo đảm cơ sở pháp lý và điều kiện cần thiết để người dân và toàn xã hội tham gia giám sát hành vi của cán bộ, công chức. Theo đó, cần hoàn thiện pháp luật về dân chủ và các quy định về công khai, minh bạch để người dân và các tổ chức xã hội có điều kiện giám sát hoạt động của các cơ quan đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên. Ban hành các quy định cụ thể để Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp, doanh nghiệp, báo chí và người dân chủ động tham gia, tránh tình trạng chỉ khi được giao nhiệm vụ hoặc “được mời” thì mới tham gia. Hiện nay, quyền của các tổ chức xã hội trong phòng, chống tham nhũng về cơ bản đã có nhiều nhưng chủ yếu mang tính nguyên tắc, cần phải cụ thể hơn, nhất là về điều kiện bảo đảm và chế tài để bảo vệ các quyền này.
Thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 27-CT/TW, ngày 10-1-2019, của Bộ Chính trị, về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ người phát hiện, tố giác, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; Quy định số 11-QĐi/TW, ngày 18-2-2019, của Bộ Chính trị, về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân; quy định về xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, đơn vị; quy định về việc thôi giữ chức vụ, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý; cơ chế bảo vệ người dân phản ánh, tố giác và tích cực đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; cơ chế kiểm soát quyền lực trong phòng, chống tham nhũng … Triển khai thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 bảo đảm kịp thời, đồng bộ, thống nhất và hiệu lực, hiệu quả; đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thiện thể chế về quản lý kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng, nhất là sửa đổi, bổ sung Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức, Luật Kiểm toán nhà nước, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Giám định tư pháp, Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư… Rà soát, xác định rõ những cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội còn thiếu chặt chẽ, sơ hở, chồng chéo, dễ bị lợi dụng, dễ làm nảy sinh tham nhũng; những khâu, những lĩnh vực quản lý còn bị buông lỏng dẫn đến những cán bộ, công chức thoái hóa, biến chất đã lợi dụng để tham nhũng; đặc biệt là cơ chế, chính sách và công tác quản lý trên những lĩnh vực mà thực tế thời gian qua xảy ra nhiều sai phạm, tham nhũng lớn, như đất đai, quy hoạch, đầu tư, xây dựng, quản lý vốn và tài sản nhà nước trong doanh nghiệp,… để từ đó khẩn trương có giải pháp khắc phục, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả.
Ba là, nâng cao năng lực của các tổ chức xã hội và người dân trong phòng, chống tham nhũng.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể, tổ chức xã hội, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề, các cơ quan báo chí, doanh nghiệp và nhân dân tăng cường phối hợp, tiếp tục đồng hành cùng Chính phủ và chính quyền các cấp thực hiện tốt các hoạt động giám sát, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tích cực đóng góp ý kiến xây dựng, hoàn thiện chính sách pháp luật và cung cấp thông tin cho các cơ quan chức năng để kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm mọi biểu hiện tiêu cực, tham nhũng cả trong khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018. Tiếp tục phát huy mạnh mẽ vai trò và trách nhiệm của toàn xã hội trong công tác phòng, chống tham nhũng.
Tăng cường chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân nhất là đối với các văn bản chính sách, pháp luật có khả năng tạo ra cơ hội, điều kiện phát sinh tham nhũng, kể cả đối với công tác tổ chức, cán bộ. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, xác định rõ trách nhiệm của các bên nhằm phối hợp, huy động các nỗ lực của toàn xã hội trong phòng, chống tham nhũng theo quy định của Luật Mặt trận Tổ quốc năm 2015. Tích cực phát huy vai trò của báo chí trong phát hiện tham nhũng; chủ động cung cấp, định hướng thông tin tuyên truyền về phòng, chống tham nhũng theo Quy định số 65-QĐ/TW, ngày 3-2-2017, của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Có cơ chế, biện pháp cụ thể nhằm khuyến khích, động viên, bảo vệ những nhà báo dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng; bảo đảm báo chí đưa tin khách quan, kịp thời, hiệu quả về các vụ, việc tham nhũng. Xây dựng và thực hiện trong cộng đồng doanh nghiệp quy tắc đạo đức kinh doanh, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy tắc ứng xử, cơ chế kiểm soát nội bộ nhằm phòng ngừa xung đột lợi ích, ngăn chặn hành vi tham nhũng và xây dựng văn hóa kinh doanh lành mạnh, phi tham nhũng. Bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật về trách nhiệm và sự phối hợp của các cơ quan trong việc hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ cho các ban thanh tra nhân dân nhằm nâng cao hơn nữa năng lực đấu tranh phòng, chống tham nhũng của nhóm chủ thể này.
Bốn là, tăng cường bảo vệ, tôn vinh, khen thưởng, nhân rộng điển hình phòng, chống tham nhũng, bảo vệ người đấu tranh phòng, chống tham nhũng và xây dựng đạo đức, văn hóa liêm chính cho toàn dân.
Cùng với việc tôn vinh về mặt tinh thần, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội cần có cơ chế khen thưởng thích đáng, phù hợp với thực tế nhằm khuyến khích, thúc đẩy sự tham gia của người dân trong việc giám sát, phát hiện và phản ánh, tố cáo các hiện tượng tham nhũng. Điều này cần thực hiện chủ động và trước hết từ phía Nhà nước, nhất là trong công tác bảo vệ người tố cáo và nhân chứng trong các vụ việc tham nhũng.
Việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng cần được xây dựng trên nền tảng đạo đức xã hội nói chung. Trước mắt, Đảng và Nhà nước ta, các cơ quan quản lý giáo dục, các cơ sở giáo dục công lập và dân lập, các tổ chức xã hội và mỗi người dân cần đặc biệt quan tâm xây dựng các chuẩn mực đạo đức, văn hoá và coi trọng giáo dục về nhân cách, đạo đức công dân, kiến thức pháp luật cho mọi tầng lớp trong xã hội, nhất là cho thế hệ trẻ có thái độ không chấp nhận tham nhũng, từng bước hình thành văn hoá liêm chính. Công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng cần gắn với nhiệm vụ xây dựng đạo đức của tổ chức đảng và đảng viên, văn hoá công sở, văn hoá doanh nghiệp - doanh nhân./.
-----------------------
(1) Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2002, tr. 564
(2) Trần Ngọc Đường: Bàn về nguyên tắc pháp quyền trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Sách chuyên khảo), Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2020, tr. 94
(3) Jon Mill, Luận về tự do, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 131
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 355 - 356
(5) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, t. 55, tr. 238
(6) Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 30 - 31
(7), (10) Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 208, tr. 210, 225
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 278, 256 - 257
(9) Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 29, 30
(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.213
(12), (15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ IX, Hà Nội, tháng 9 - 2019, tr. 32, tr. 84
(13) Thông báo cuộc họp Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, ngày 25-11-2020
(14) Đề tài khoa học cấp Bộ “Vai trò của xã hội trong phòng, chống tham nhũng” năm 2010, nguồn: Viện Khoa học thanh tra
Nguồn: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/820540/vai-tro-cua-kiem-soat-xa-hoi-trong-dau-tranh-phong%2C-chong-tham-nhung-o-nuoc-ta-hien-nay.aspx