Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân
14:05 25/10/2023
Đại hội XIII của Đảng xác định “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là một nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”(1), đồng thời yêu cầu “Nghiên cứu ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp”(2). Theo đó, việc ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” khẳng định sự thống nhất cao trong toàn Đảng, toàn dân về quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu và những nhiệm vụ, giải pháp lớn nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa trong việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Nghị quyết số 27-NQ/TW đề ra 5 nhóm quan điểm, xác định mục tiêu tổng quát, các mục tiêu cụ thể đến năm 2030 và 3 trọng tâm. Đối với tư pháp, Nghị quyết đặt mục tiêu phải đạt đến năm 2030, đó là: “Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”. Đồng thời, Nghị quyết xác định một trong ba trọng tâm của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là: “Đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Thời gian tới, để thực hiện mục tiêu và hoàn thành các nhiệm vụ cải cách tư pháp mà Nghị quyết số 27-NQ/TW đề ra, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống tòa án cần tập trung quán triệt, triển khai các nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, về mục tiêu, yêu cầu xây dựng nền tư pháp.
Nghị quyết số 27-NQ/TW yêu cầu: “Xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. So với Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2-6-2005, của Bộ Chính trị, “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, quan điểm của Đảng ta về mục tiêu, yêu cầu xây dựng nền tư pháp tiếp tục có bước phát triển. Theo đó, Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết số 27-NQ/TW bổ sung yêu cầu về tính “chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng” của nền tư pháp.
Nghị quyết số 27-NQ/TW nhấn mạnh việc tăng cường tính chuyên nghiệp trong hoạt động tư pháp bởi nó liên quan chặt chẽ đến mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Khi tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, thẩm quyền, cũng như đội ngũ cán bộ chưa được kiện toàn; hoạt động của tòa án chưa bảo đảm tính chuyên nghiệp, sẽ ảnh hưởng đến chất lượng nền tư pháp và niềm tin của người dân. Tính chuyên nghiệp thể hiện cả ở đội ngũ cán bộ có trình độ cao, hiểu biết sâu rộng, làm việc đúng chức trách, nhiệm vụ được giao, cũng như hoạt động của tòa án phải tuân thủ trình tự, thủ tục luật định, và phán quyết phải dựa trên căn cứ pháp luật.
Xây dựng nền tư pháp hiện đại nhằm nâng cao chất lượng nền tư pháp, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế và tiệm cận với các nền tư pháp tiên tiến trên thế giới. Mục tiêu này được Nghị quyết số 27-NQ/TW đặt ra là có cơ sở vững chắc trong bối cảnh đất nước đã có 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Trong khi Nghị quyết số 49-NQ/TW chỉ đặt vấn đề xây dựng nền tư pháp “từng bước hiện đại” thì đến Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết số 27-NQ/TW, Đảng ta đặt ra yêu cầu cao hơn là xây dựng nền tư pháp “hiện đại” để khẳng định quyết tâm chính trị và định hướng tập trung đầu tư cơ sở vật chất, bố trí nguồn lực cũng như các điều kiện bảo đảm khác để phát triển hệ thống tư pháp.
Hiến pháp năm 2013 ghi nhận và xác định mục tiêu phải xây dựng một xã hội công bằng, đồng thời quy định việc xét xử của tòa án phải bảo đảm công bằng. Như vậy, công bằng là đặc tính của hoạt động tố tụng tư pháp nói chung và hoạt động xét xử nói riêng, công bằng cũng là mục tiêu của một xã hội văn minh. Hoạt động của tòa án nhằm mang lại công bằng cho xã hội và người dân cần đến tòa án để có được sự phán xử công bằng. Tính công bằng đó được thể hiện không chỉ thông qua các phán quyết của tòa án, mà còn ở sự công bằng, bình đẳng của các bên tham gia trước các thủ tục tố tụng, bảo đảm sự tiếp cận công lý ngang nhau giữa các bên tham gia.
Những nội dung mới về mục tiêu, yêu cầu cải cách tư pháp nêu trên của Nghị quyết số 27-NQ/TW cần được quán triệt và triển khai cụ thể trong thực tiễn. Nó cũng đặt ra yêu cầu đối với quá trình hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực thi pháp luật phải bám sát mục tiêu, yêu cầu để thể chế hóa đầy đủ, cụ thể trong các đạo luật. Đồng thời sắp xếp, hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp; tăng cường các điều kiện bảo đảm; đào tạo, nâng cao năng lực, bản lĩnh, trách nhiệm của đội ngũ các chức danh tư pháp ngang tầm nhiệm vụ.
Thứ hai, bảo đảm tính độc lập của tòa án.
Nghị quyết số 27-NQ/TW đặt ra yêu cầu “bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử; thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Đây là những nguyên tắc căn cốt trong tổ chức và hoạt động của tòa án được ghi nhận ở các văn kiện, các cam kết quốc tế và trong Hiến pháp của mỗi quốc gia. Ở nước ta, nguyên tắc độc lập xét xử được ghi nhận ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) và tiếp tục được khẳng định trong các bản Hiến pháp sau này và nội hàm của nó được phát triển rộng hơn dưới nhiều góc độ khác nhau.
Phán quyết của tòa án liên quan trực tiếp đến những quyền thiêng liêng, cơ bản, liên quan đến danh dự, nhân phẩm, lương tâm, sinh mệnh chính trị, tài sản của con người. Vì vậy, để bảo đảm được tính công bằng thì không ai được phép áp đặt hay can thiệp vào việc xét xử của tòa án. Nhà nước, pháp luật và toàn xã hội có trách nhiệm bảo đảm cho tòa án, thẩm phán một môi trường tác nghiệp không có bất cứ sự can thiệp nào; họ phải được độc lập trong xét xử và điều duy nhất tòa án và thẩm phán phải tuân theo chính là pháp luật.
Nghị quyết số 27-NQ/TW xác định cụ thể hơn về nguyên tắc bảo đảm sự độc lập của tòa án trên 2 phương diện: Một là, bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, độc lập giữa các cấp xét xử; hai là, bảo đảm thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Về bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử: Hệ thống tòa án được phân thành các cấp xét xử theo thẩm quyền tố tụng, bao gồm cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm, cấp giám đốc thẩm, tái thẩm. Mối quan hệ giữa các cấp xét xử không phải quan hệ hành chính giữa cấp trên với cấp dưới; cấp phúc thẩm không phải là cấp trên của cấp sơ thẩm, tương tự cấp giám đốc thẩm không phải là cấp trên của cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Các cấp xét xử hoàn toàn độc lập với nhau, là quan hệ tố tụng, độc lập khi xét xử và chỉ tuân theo pháp luật, không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào có quyền áp đặt.
Về độc lập của thẩm phán, hội thẩm khi xét xử: Đây là sự độc lập của thẩm phán và hội thẩm với các chủ thể khác bên ngoài hội đồng xét xử, cũng như độc lập ngay giữa các thành viên trong hội đồng xét xử. Các chủ thể khác không được phép can thiệp, chỉ đạo hoạt động xét xử của thẩm phán, hội thẩm khi họ tham gia xét xử ngay cả khi người đó là lãnh đạo, quản lý của thẩm phán, hội thẩm. Thẩm phán, hội thẩm cũng độc lập với nhau khi đưa ra quan điểm, ý kiến, quyết định mà không phụ thuộc vào thành viên khác trong hội đồng xét xử. Họ được quyền bảo lưu ý kiến trong trường hợp ý kiến đó là thiểu số. Hoạt động xét xử mang tính đặc thù, không phải là hoạt động quản lý nhà nước nên không phải chịu sự tuân thủ, phục tùng, mệnh lệnh của cấp trên. Họ được toàn quyền quyết định trên cơ sở pháp luật và chịu sự ràng buộc duy nhất là quy định của pháp luật.
Hiện nay, nhiều quy định của pháp luật hiện hành chưa thể chế hóa triệt để được tinh thần của nguyên tắc tối thượng này trong hoạt động tư pháp. Do vậy, cần quán triệt yêu cầu này của Nghị quyết số 27-NQ/TW và các nghị quyết, kết luận khác của Đảng, đặc biệt là trong việc nghiên cứu, sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và các luật tố tụng nhằm thực hiện nghiêm nguyên tắc độc lập tư pháp. Theo đó, cần tổ chức hệ thống tòa án nhân dân theo thẩm quyền xét xử bao gồm Tòa án nhân dân sơ thẩm, Tòa án nhân dân phúc thẩm, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tối cao. Đồng thời, sớm hoàn thiện và trình cấp có thẩm quyền ban hành cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp, làm ảnh hưởng đến nguyên tắc bảo đảm sự độc lập của tòa án theo đúng yêu cầu của Nghị quyết đã nêu.
Thứ ba, xác định thẩm quyền của tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp.
Nghị quyết số 27-NQ/TW yêu cầu: “Xác định thẩm quyền của tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp;..., quyết định một số vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Nghiên cứu làm rõ thẩm quyền hội đồng xét xử khởi tố vụ án tại phiên tòa, những trường hợp tòa án thu thập chứng cứ trong hoạt động xét xử”. Đây là yêu cầu thiết yếu nhằm làm rõ và quy định chi tiết về quyền tư pháp của tòa án, trên cơ sở đó xác định thẩm quyền của tòa án với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 2013. Theo quy định của Hiến pháp, thì “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”; “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp”; “Chính phủ... thực hiện quyền hành pháp”; “Tòa án... thực hiện quyền tư pháp”. Như vậy, tòa án được Hiến pháp phân công thực hiện quyền tư pháp; và quyền tư pháp duy nhất do tòa án thực hiện(3).
Thực tiễn pháp lý được thừa nhận chung trên thế giới cho thấy, nội hàm của quyền tư pháp bao gồm quyền xét xử và phán quyết; quyền bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử trên cơ sở tổng kết thực tiễn xét xử; quyền phát triển án lệ; quyền quyết định những vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân; quyền công nhận kết quả hòa giải thành ngoài tòa án; quyền công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài, phán quyết của trọng tài nước ngoài; quyền xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật; quyền giải thích pháp luật và một số quyền khác...
Quyền tư pháp có những đặc trưng cơ bản, như được thực hiện bởi tòa án độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; phải tuân theo thủ tục tố tụng chặt chẽ; bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật bắt buộc các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành; bản án, quyết định của tòa án được bảo đảm thi hành bằng quyền lực nhà nước bởi cơ quan thi hành án có thẩm quyền; bản án, quyết định của tòa án chỉ bị thay đổi, hủy bỏ bởi tòa án có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục luật định; bản án, quyết định của tòa án đã tuân thủ đầy đủ thủ tục tố tụng, nhưng có sai sót thì bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật để hủy, sửa theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm và hội đồng xét xử chỉ phải chịu trách nhiệm nếu có lỗi chủ quan, cố ý.
Ở Việt Nam, thời gian qua, thực tiễn xây dựng pháp luật chưa có được nhận thức thật rõ về quyền tư pháp, nội hàm của quyền tư pháp và những đặc trưng cơ bản của quyền này, dẫn đến chưa quy định đầy đủ thẩm quyền của tòa án để thực hiện tốt quyền tư pháp được Hiến pháp giao. Bên cạnh đó, một số luật vẫn giao cho tòa án nhiệm vụ, thẩm quyền không thuộc phạm vi nội hàm của quyền tư pháp (như thẩm quyền khởi tố vụ án, thẩm quyền thu thập chứng cứ... vốn là những thẩm quyền của bên buộc tội hoặc của đương sự). Do đó, quá trình thực thi các quy định này bộc lộ nhiều bất cập trong thực tiễn và chưa phù hợp với yêu cầu phân công quyền lực nhà nước. Việc giao cho tòa án thẩm quyền khởi tố vụ án, sau đó lại xét xử vụ án do chính mình đã khởi tố; giao cho tòa án thẩm quyền thu thập chứng cứ, sau đó lại xét xử dựa trên chính những chứng cứ do mình thu thập, có thể làm ảnh hưởng đến tính vô tư, khách quan và xem nhẹ những chứng cứ khác do các bên thu thập.
Do vậy, trong thời gian tới, cần quán triệt và thực hiện nghiêm yêu cầu của Nghị quyết số 27-NQ/TW để nghiên cứu, sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, các luật tố tụng và các luật có liên quan để quy định rõ nội dung và phạm vi quyền tư pháp; sửa đổi, bổ sung các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn, hiệu quả quyền tư pháp.
Thứ tư, mở rộng thẩm quyền của tòa án trong xét xử vi phạm hành chính.
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Tòa án đã thực hiện rất hiệu quả việc kiểm soát các cơ quan công quyền áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính thông qua xét xử vụ án hành chính. Tuy nhiên, việc trao cho cơ quan hành chính nhà nước thẩm quyền áp dụng biện pháp hạn chế quyền tự do của công dân, áp dụng chế tài làm hạn chế quyền con người của họ trong một số trường hợp đã thể hiện sự bất hợp lý, không bảo đảm tính vô tư, khách quan. Trong khi đó, Hiến pháp quy định tòa án có trách nhiệm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, duy trì trật tự xã hội và lợi ích công cộng, đồng thời phải bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Do vậy, việc áp dụng chế tài và biện pháp hạn chế quyền con người phải giao cho tòa án quyết định dựa trên các căn cứ của pháp luật.
Thời gian vừa qua, một số loại việc xử phạt vi phạm hành chính, biện pháp xử lý hành chính thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính đã được chuyển cho tòa án xem xét, quyết định nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch, dân chủ, pháp quyền trong quá trình xử lý, như xem xét, quyết định việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc,... Việc áp dụng các chế tài xử phạt, biện pháp cưỡng chế hành chính được các tòa án tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, công khai, có sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, qua đó góp phần bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân.
Do vậy, Nghị quyết số 27-NQ/TW yêu cầu “mở rộng thẩm quyền của tòa án trong xét xử các vi phạm hành chính” nhằm bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân. Để thực hiện được yêu cầu này, trong thời gian tới cần rà soát, sửa đổi Luật Xử lý vi phạm hành chính nhằm mở rộng thẩm quyền của tòa án trong giải quyết các vụ án hành chính, nhất là đối với những vụ việc áp dụng biện pháp xử phạt, biện pháp xử lý có tính chất hạn chế quyền con người, quyền công dân; bảo đảm việc xem xét, áp dụng chế tài hành chính được thực hiện cẩn trọng, đúng quy định, theo một quy trình tố tụng tư pháp công khai, minh bạch.
Thứ năm, thực hiện chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá.
Trong toàn bộ quá trình tố tụng, hoạt động xét xử của tòa án giữ vị trí trung tâm. Trong giai đoạn xét xử có sự hội tụ đầy đủ các chủ thể thực hiện các chức năng cơ bản của tố tụng tranh tụng, bao gồm chức năng buộc tội, chức năng bào chữa, chức năng xét xử. Đặc biệt, chỉ đến giai đoạn xét xử mới hiến định nguyên tắc công khai, theo đó toàn bộ quá trình xét xử được tiến hành công khai, trừ một số trường hợp xét xử kín được luật định. Chỉ đến giai đoạn xét xử, toàn bộ chứng cứ của bên buộc tội, bên gỡ tội và của các bên đương sự mới được đưa ra kiểm tra, đối chất, tranh tụng một cách công khai, theo một thủ tục chặt chẽ và được hội đồng xét xử xem xét toàn diện. Chỉ có chứng cứ, tài liệu đã được kiểm tra, đánh giá công khai tại phiên tòa và trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên tòa mới có giá trị chứng minh và được sử dụng làm căn cứ để tòa án đưa ra phán quyết về vụ án.
Với tầm quan trọng của hoạt động xét xử, Đảng ta đã quyết tâm đẩy mạnh tranh tụng và xác định đây là vấn đề có tính đột phá trong cải cách tư pháp(4). Trên cơ sở kế thừa kết quả đạt được trong việc thực hiện cải cách tư pháp thời gian qua, Nghị quyết số 27-NQ/TW tiếp tục yêu cầu: “Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá; bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân”.
Tranh tụng không phải là nội dung mới mà là yêu cầu tất yếu của tư pháp tiến bộ trên thế giới. Quá trình tố tụng, cả cơ quan tố tụng và người tham gia tố tụng đều có nhu cầu kiểm tra, bổ sung chứng cứ, tranh luận và phản biện lý lẽ của nhau. Do đó, tranh tụng là nhu cầu khách quan của tố tụng và tập trung nhất ở giai đoạn xét xử tại phiên tòa. Hiến pháp năm 2013 của nước ta đã thể chế hóa các nghị quyết, quan điểm của Đảng và hiến định nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Có thể nói, việc quy định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử trong Hiến pháp năm 2013 và các luật tố tụng đã phản ánh bước tiến quan trọng của nền tư pháp nước nhà, tạo sự chuyển biến về chất trong hoạt động tố tụng. Nghị quyết số 27-NQ/TW một lần nữa tiếp tục khẳng định quan điểm đó và nhấn mạnh “tranh tụng là đột phá” của cải cách tư pháp.
Quán triệt Nghị quyết số 27-NQ/TW, nhiệm vụ đặt ra trong thời gian tới cần tiếp tục hoàn thiện các đạo luật, nhất là các luật tố tụng để thực hiện tốt hơn nữa yêu cầu “xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá”. Quá trình tranh tụng không chỉ dừng lại ở phiên tòa, mà phải được bảo đảm thực hiện từ các giai đoạn trước khi tòa án giải quyết vụ việc, như giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố. Các chủ thể phải được bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội và các tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Việc tranh tụng tại phiên tòa cần được đẩy mạnh và các thủ tục tố tụng phải tạo thuận lợi cho các bên tranh tụng, không hạn chế thời gian dành cho tranh tụng, mọi vấn đề nêu ra trong tranh tụng phải được giải quyết đến cùng và ghi nhận trong bản án, tòa án căn cứ vào kết quả tranh tụng để đưa ra phán quyết của mình. Đối với vụ án hình sự, kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu, lập luận để tranh tụng đến cùng với từng ý kiến của người tham gia tố tụng. Và để hoạt động tranh tụng trong quá trình xét xử diễn ra đạt kết quả cao nhất, thẩm phán phải không ngừng nâng cao năng lực và kỹ năng điều hành tranh tụng tại phiên tòa, đánh giá chứng cứ và các tình tiết sự việc trên cơ sở kết quả tranh tụng, từ đó ban hành phán quyết tâm phục, khẩu phục.
Thứ sáu, phân định rõ nhiệm vụ của từng cấp xét xử.
Để hoàn thiện bộ máy tổ chức theo thẩm quyền xét xử và thực hiện nguyên tắc độc lập tư pháp, Nghị quyết số 27-NQ/TW yêu cầu: “Phân định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm”. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định rõ thẩm quyền của từng cấp tòa án, nâng cao trách nhiệm chứng minh của các đương sự và cơ quan tiến hành tố tụng liên quan; bảo đảm hoạt động tố tụng hiệu quả hơn, có điểm dừng phù hợp, không bị cuốn vào vòng xoáy của thủ tục “tố tụng giả”, “tố tụng ác ý”; thực hiện nghiêm chế độ hai cấp xét xử được quy định trong Hiến pháp năm 2013.
Để thực hiện tốt yêu cầu này của Nghị quyết số 27-NQ/TW, trong thời gian tới cần nghiên cứu, quy định rõ nhiệm vụ của từng cấp xét xử theo hướng: 1- Cấp xét xử sơ thẩm có nhiệm vụ xem xét, đánh giá toàn diện các tài liệu, chứng cứ để xác định tính có căn cứ của các lập luận, yêu cầu của các bên và áp dụng pháp luật để giải quyết khách quan, toàn diện các vấn đề của vụ án; 2- Cấp xét xử phúc thẩm có nhiệm vụ xem xét tính có căn cứ và việc áp dụng pháp luật của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật; trên cơ sở đó giữ nguyên, hủy, sửa bản án, quyết định sơ thẩm; bảo vệ các bản án, quyết định đã xét xử đúng pháp luật; khắc phục sai sót (nếu có); 3- Cấp giám đốc thẩm, tái thẩm có nhiệm vụ xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án để kiểm tra tính đúng đắn trong việc áp dụng pháp luật; bảo vệ các bản án, quyết định đã xét xử đúng pháp luật; khắc phục sai sót trong bản án, quyết định (nếu có); bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.
Thứ bảy, đổi mới cơ chế nhân dân tham gia xét xử tại tòa án.
Nhân dân tham gia vào hoạt động của Nhà nước nói chung và hoạt động tư pháp nói riêng là đặc tính của Nhà nước dân chủ, tiến bộ. Tư pháp nhân loại tồn tại phổ biến 3 mô hình nhân dân tham gia quá trình xét xử: Mô hình Hội thẩm nhân dân (Việt Nam, Trung Quốc...); mô hình Hội thẩm đoàn (tương tự Bồi thẩm đoàn ở châu Âu, châu Mỹ...); mô hình đan xen, kết hợp giữa hai mô hình trên (Liên bang Nga...).
Ở Việt Nam, nguyên tắc “Việc xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân có hội thẩm tham gia” được hiến định như một phương thức để nhân dân trực tiếp tham gia và giám sát hoạt động xét xử của tòa án. Hội thẩm mang đến phiên tòa quan niệm đạo đức và sự đánh giá chung của xã hội về hành vi phạm tội và các tranh chấp theo quan niệm về lẽ phải, sự công bằng. Với kinh nghiệm, sự hiểu biết và kiến thức của mình, hội thẩm góp phần quan trọng xác định sự thật khách quan của vụ án, làm tăng niềm tin của thẩm phán trong việc đưa ra phán quyết “thấu tình, đạt lý”. Tuy nhiên, thực tiễn thời gian qua cho thấy, các quy định của pháp luật hiện hành về cơ chế lựa chọn, vị trí, vai trò, thẩm quyền, tổ chức hoạt động của hội thẩm..., và quá trình thực thi bộc lộ hạn chế, bất cập, chưa theo kịp yêu cầu ngày càng cao của hoạt động tư pháp. Đây là một nội dung mới đặt ra trong Nghị quyết số 27-NQ/TW, trong đó yêu cầu “Đổi mới và nâng cao hiệu quả cơ chế nhân dân tham gia xét xử tại tòa án”.
Để khắc phục những bất cập trong thực tiễn và thể chế hóa đầy đủ yêu cầu của Nghị quyết số 27-NQ/TW, thời gian tới, cần nghiên cứu đổi mới chế định hội thẩm nhân dân theo hướng: Hoàn thiện tiêu chuẩn của hội thẩm nhân dân; quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của hội thẩm nhân dân; đổi mới cơ cấu, thành phần hội thẩm nhân dân trong hội đồng xét xử; đổi mới cơ chế tuyển chọn, bầu cử, quản lý hội thẩm nhân dân; quy định chặt chẽ quy trình lựa chọn ngẫu nhiên hội thẩm nhân dân tham gia hội đồng xét xử; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cho hội thẩm nhân dân và có chế độ, chính sách hợp lý... Đồng thời, về lâu dài, cần nghiên cứu trình Quốc hội ban hành một đạo luật độc lập về hội thẩm nhân dân.
Thứ tám, xây dựng tòa án điện tử.
Với sự phát triển như vũ bão và thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại, việc xây dựng tòa án điện tử đã trở thành xu thế toàn cầu. Thực tiễn quốc tế cho thấy, nhiều nước chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tư pháp từ sớm và đạt được những thành tựu to lớn trong xây dựng tòa án điện tử, như Trung Quốc, Mỹ, Ô-xtrây-li-a, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc, Xin-ga-po... Trong thực tiễn tại các nước, tòa án điện tử mang đến nhiều lợi ích cho tòa án, người dân và xã hội, như giúp tăng năng suất lao động của tòa án; hỗ trợ thẩm phán ra phán quyết chính xác; tiết kiệm công sức, thời gian và chi phí của người dân; xử lý một cách nhân văn các tình huống đặc biệt của tố tụng; công khai, minh bạch hoạt động của tòa án; tăng năng lực quản lý và giám sát trong hệ thống tòa án; tiết kiệm cho ngân sách... Kinh nghiệm ở những nước xây dựng được tòa án điện tử hiện đại cho thấy, việc xây dựng tòa án điện tử giúp giảm khoảng 50% thời gian xử lý vụ án.
Có thể khẳng định, ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng tòa án điện tử đã trở thành nhu cầu và xu thế không thể đảo ngược của tòa án ở tất cả các nước trên thế giới. Đây cũng là đòi hỏi khách quan của tiến trình phát triển nền tư pháp ở mọi quốc gia trong bối cảnh hiện nay. Trong bối cảnh đó và trên cơ sở những kết quả ban đầu đáng khích lệ của việc thực hiện chủ trương đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác tối đa cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại mà Tòa án nhân dân tối cao đã thực hiện thời gian qua, Nghị quyết số 27-NQ/TW đặt ra yêu cầu phải “xây dựng tòa án điện tử” là một trong những yêu cầu của cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
Phát huy thành tựu đã đạt được, với quyết tâm chính trị cao và yêu cầu của Nghị quyết số 27-NQ/TW, trong thời gian tới, Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục đẩy mạnh việc phát triển tòa án điện tử trên các phương diện: Xây dựng tòa án điện tử hướng tới thực thi và nâng cao năng lực quản trị tòa án trên nền tảng số; xây dựng tòa án điện tử để cung cấp các dịch vụ tư pháp công, nhằm phục vụ người dân tốt hơn; xây dựng tòa án điện tử để hỗ trợ thẩm phán nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động, như phát triển ứng dụng “trợ lý ảo” để cung cấp các dịch vụ thông minh hỗ trợ thẩm phán; xây dựng tòa án điện tử để triển khai các hoạt động tố tụng trực tuyến, như nộp đơn khởi kiện, cung cấp chứng cứ, khai báo trực tuyến; tổ chức trực tuyến các phiên hòa giải; xét xử trực tuyến...; xây dựng tòa án điện tử để góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của tòa án; xây dựng tòa án điện tử để kết nối với các nền tảng số khác...
Thứ chín, về đội ngũ cán bộ tư pháp.
Nghị quyết số 27-NQ/TW dành sự quan tâm đáng kể đến việc phát triển đội ngũ cán bộ tư pháp và đặt ra yêu cầu: “Phát triển nhân lực tư pháp đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý. Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực tư pháp; rà soát, sắp xếp hợp lý các cơ sở đào tạo cử nhân luật. Xác định rõ hệ tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, kiến thức pháp luật, kinh tế, xã hội và kinh nghiệm thực tiễn đối với từng chức danh, nhân lực tư pháp. Mở rộng nguồn, đẩy mạnh thực hiện cơ chế thi tuyển để bổ nhiệm các chức danh tư pháp. Đổi mới chính sách, chế độ tiền lương, thời hạn bổ nhiệm và cơ chế bảo đảm để đội ngũ cán bộ tư pháp yên tâm công tác, liêm chính, công tâm, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là đối với đội ngũ thẩm phán”.
Xét xử là công việc rất khó khăn, vất vả bởi đó là quá trình đi tìm sự thật thường được che giấu một cách tinh vi và chuyên nghiệp, cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều loại tranh chấp, vi phạm, tội phạm phi truyền thống với những thủ đoạn mới chưa từng có. Với trọng trách của người bảo vệ và thực thi công lý, thẩm phán thường xuyên phải đối mặt với thách thức, tiêu cực trong xã hội, rủi ro, nguy hiểm, thậm chí là không ít cám dỗ, mua chuộc vì mỗi phán quyết của thẩm phán tác động trực tiếp đến tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản và cả tính mạng con người. Nếu không rèn cho mình bản lĩnh vững vàng, sự liêm chính, trong sạch, thẳng thắn, trung thực, vô tư, khách quan thì thẩm phán sẽ không thể hoàn thành được trọng trách của mình.
Sự nghiệp đi tìm lẽ phải, sự công bằng không có chỗ đứng cho những con người thiếu sự liêm chính, trung thực, thẳng thắn và nhân dân đòi hỏi ở thẩm phán những phẩm chất cao quý với những đánh giá khắt khe. Vì vậy, mỗi thẩm phán phải là tấm gương về sự lao động hết mình, thanh liêm, chính trực, công tâm, khách quan, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, tác phong công tác, lối sống, bản lĩnh, dũng khí bảo vệ cái đúng và đặc biệt phải liêm, phải trong sạch, phải luôn gương mẫu giữ mình. Chỉ có như vậy mới góp phần xây dựng được niềm tin, sự kính trọng của người dân và xã hội đối với tòa án và thẩm phán.
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân, để thẩm phán thực hiện ngày càng tốt trọng trách nhân danh Nhà nước thực hiện quyền tư pháp, xét xử và phán quyết, Tòa án nhân dân tối cao đã triển khai quyết liệt nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là thẩm phán, trong đó ban hành “Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của thẩm phán”(5). Đây là cơ sở để thẩm phán soi rọi, tuân theo trong quá trình hoạt động nghề nghiệp của mình.
Quán triệt yêu cầu của Nghị quyết số 27-NQ/TW, thời gian tới cần khẩn trương sửa đổi các luật, đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là đội ngũ thẩm phán đáp ứng yêu cầu đặt ra. Theo đó, nghiên cứu đổi mới ngạch, bậc các chức danh trong hệ thống tòa án (thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký tòa án); quy định chặt chẽ và nâng cao tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm các chức danh tư pháp; đề cao kỷ cương, kỷ luật, tăng cường giám sát thẩm phán... nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ tòa án đủ năng lực, phẩm chất, thực hiện tốt quyền tư pháp được giao.
***
Nội dung cải cách tư pháp được nêu trong Nghị quyết số 27-NQ/TW có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Để đạt được mục tiêu này, đòi hỏi từng cấp ủy, từng đảng viên, nhất là các cơ quan được giao trách nhiệm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng vào pháp luật cũng như các cơ quan tư pháp phải thấm nhuần từng yêu cầu của Nghị quyết, nêu cao quyết tâm đổi mới, quyết tâm cải cách để sớm đưa Nghị quyết vào thực tiễn cuộc sống./.
(3) Xem: Nguyễn Sinh Hùng: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và thành tựu lập pháp trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 401
(4) Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 2-1-2002, của Bộ Chính trị, về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2-6-2005, của Bộ Chính trị, “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”
(5) Các chuẩn mực đạo đức của thẩm phán được xác định trong Bộ quy tắc gồm: Tính độc lập; Sự liêm chính; Sự vô tư, khách quan; Sự công bằng, bình đẳng; Sự đúng mực; Sự tận tụy và không chậm trễ; Năng lực và sự chuyên cần