Thực trạng pháp luật về hoạt động từ thiện và những vấn đề đặt ra ở Việt Nam hiện nay

14:45 22/09/2025

Tóm tắt: Hoạt động từ thiện ở nước ta hiện nay đã góp một phần quan trọng trong việc hỗ trợ, giúp đỡ những người gặp khó khăn trong xã hội, đồng thời thể hiện tinh thần nhân đạo và lòng nhân ái của cộng đồng. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả tích cực, hoạt động từ thiện ở nước ta cũng đang tồn tại nhiều vấn đề như tính tự phát cao; tồn tại nhiều tiêu cực; thiếu công khai, minh bạch…dẫn đến làm giảm hiệu quả của các hoạt động từ thiện cũng như suy giảm lòng tin của công chúng, xã hội. Một trong những nguyên nhân của thực trạng trên là sự bất cập trong pháp luật về hoạt động từ thiện. Bài viết đi vào nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật cũng như những giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động từ thiện ở nước ta, đảm bảo hoạt động từ thiện diễn ra minh bạch, hiệu quả.

Từ khóa: Hoạt động từ thiện, thực trạng pháp luật, hoàn thiện pháp luật, Việt Nam…

Đặt vấn đề

Thực tế cho thấy, hiện các hoạt động từ thiện ở nước ta đã và đang giúp đỡ cho các hoàn cảnh khóa khăn, yếu thế trong xã hội; cùng với nhà nước giải quyết các vấn đề của công tác an sinh xã hội cũng như phát huy hơn nữa lòng yêu nước, sự đoàn kết dân tộc. Do đó, những năm qua Nhà nước ta đã ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về hoạt động từ thiện nhằm đảm bảo tính pháp lý cũng như hiệu quả cho hoạt động này. Tuy nhiên, hiện nay các quy định pháp luật về hoạt động từ thiện của nước ta còn nhiều hạn chế, bất cập.

Về mặt hình thức, hiện nước ta chưa có luật riêng về hoạt động từ thiện, các quy định pháp lý liên quan đến hoạt động này nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau dẫn đến sự thiếu thống nhất, toàn diện do được ban hành bởi nhiều chủ thể khác nhau. Về mặt nội dung, các quy định pháp lý hiện hành cho thấy nhiều hạn chế, khoảng trống trong việc thể hiện rõ chủ thể, đối tượng điều chỉnh cũng như quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia hoạt động từ thiện; các hoạt động giám sát; quản lý hoạt động từ thiện; các chế tài xử lý khi có vi phạm xảy ra….Trong khi các quy định pháp lý còn nhiều hạn chế thì các hoạt động từ thiện hiện nay đang diễn ra ngày một phức tạp, đồng thời mục tiêu của các hoạt động này không chỉ hướng đến việc trợ giúp khẩn cấp mà còn hướng đến mục tiêu dài hạn và bền vững hơn. Với những vấn đề đặt ra có thể thấy việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động từ thiện ở nước ta là vô cùng cần thiết bởi đây là cơ sở để hiện thực hóa các chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách của Nhà nước về hoạt động từ thiện; nâng cao hiệu quả thực hiện hướng đến mục tiêu bền vững, phát triển. Đây là yêu cầu xuất phát từ công tác xây dựng và thi hành pháp luật phải xuất phát, phù hợp với thực tiễn đất nước và đón kịp xu thế thời đại như định hướng của Tổng Bí thư Tô Lâm.

1. Khái quát về từ thiện và pháp luật về hoạt động từ thiện

Về mặt lý luận, đã có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đưa ra khái niệm, quan điểm về hoạt động từ thiện. Một số quan điểm có thể nhắc đến như “từ thiện là “có lòng thương người, sẵn sàng giúp đỡ người nghèo khó để làm phúc” [1]. Rộng hơn xem xét từ thiện dưới nhiều góc độ khác nhau Anheier, H., và R. List (2005) đã định nghĩa từ thiện xã hội bao gồm: a) các hoạt động tự nguyện giúp đỡ, bao gồm cả sự giúp đỡ về vật chất cho những đối tượng cần giúp đỡ; b.)cơ quan hay tổ chức làm việc giúp đỡ người có nhu cầu trợ giúp;c) những quan niệm về lòng tốt, sự hào phóng, vị tha và bao dung trong việc đánh giá người khác. Theo nghĩa rộng thì từ thiện có thể được hiểu như là những cam kết lâu dài và tự nguyện vì lợi ích của cộng đồng, góp phần giải quyết các nguyên nhân sâu xa gây ra của các vấn đề xã hội [2].

Hiện nay có rất nhiều cách cắt nghĩa khác nhau về “từ thiện”, thay đổi tùy theo tư tưởng, nền văn hóa, tín ngưỡng và bối cảnh cụ thể, tuy nhiên dựa trên mục đích hướng đến của hoạt động này có thể hiểu một cách khái quát, hoạt động từ thiện là sự chia sẻ về vật chất và tinh thần của các tổ chức, cá nhân cho những người gặp hoàn cảnh khó khăn nhằm giảm bớt đau khổ, nâng cao phẩm giá, cũng như bảo vệ quyền của họ. Hoạt động này không chỉ đáp ứng nhu cầu cấp bách mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của xã hội.

Hoạt động từ thiện ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hỗ trợ các nhóm yếu thế, khắc phục thiên tai và giải quyết các vấn đề toàn cầu như đói nghèo, giáo dục và y tế. Cùng với xu hướng phát triển trên toàn cầu, từ thiện tại Việt Nam đang chuyển mình từ mô hình truyền thống sang các hình thức hỗ trợ bền vững, mở rộng ra không chỉ thực hiện bởi các tổ chức của Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội như Hội Phụ nữ, Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc, …mà còn bởi các doanh nghiệp, các nhóm tự nguyện bằng nhiều hình thức khác nhau. Nhiều tổ chức, cá nhân đã dùng sức ảnh hưởng của mình với công chúng để huy động từ thiện, thực hiện các chương trình như học bổng, bữa ăn miễn phí, ca nhạc gây quỹ, … Điều này cho thấy sự quan tâm và tinh thần tương ái của nhân dân, giúp xóa đói giảm nghèo, nâng cao tinh thần đoàn, đặc biệt khi nguồn lực Nhà nước còn hạn chế.

Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, phục vụ và bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp dân cư trong xã hội [3]. Đây được coi là công cụ quan trọng trong việc duy trì trật tự; bảo vệ quyền lợi của mọi cá nhân và tổ chức; điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội hướng đến thúc đẩy sự công bằng và tiến bộ xã hội. Hoạt động từ thiện cũng như nhiều mối quan hệ khác của xã hội chịu sự chi phối, điều chỉnh của pháp luật. Theo đó pháp luật về hoạt động từ thiện là tập hợp các quy định pháp luật được Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các mối quan hệ nảy sinh trong hoạt động từ thiện. Các quy định pháp lý này là cơ sở, công cụ để Nhà nước quản lý hoạt động từ thiện nhằm điều tiết, định hướng để hoạt động này đạt được hiệu quả cao, phù hợp theo các chuẩn mực xã hội.

Để trở thành công cụ quản lý tốt hoạt động từ thiện, pháp luật về hoạt động này cần thể hiện đầy đủ, chi tiết, khoa học về chủ thể, phạm vi, đối tượng điều; xác định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, những việc được làm, không được làm, những hành vi bị cấm của các chủ thể tham gia hoạt động từ thiện; xây dựng trình tự, thủ tục tham gia hoạt động từ thiện; Quy định về kiểm soát, khen thưởng và xử lý vi phạm trong hoạt động từ thiện …

Ở các quốc gia phát triển, từ thiện được điều chỉnh bởi khung pháp lý minh bạch, các tổ chức phi lợi nhuận lớn như Red Cross, Oxfam hay Bill & Melinda Gates Foundation luôn đi đầu trong các chương trình nhân đạo, từ cứu trợ khẩn cấp đến phát triển bền vững [4]. Ở Việt Nam, dựa trên các quan điểm trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung cũng như dựa trên thực tế hoạt động từ thiện, pháp luật về hoạt động từ thiện cần đáp ứng một số yêu cầu cơ bản như: phải phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực của pháp luật quốc tế về từ thiện; phù hợp với quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về hoạt động từ thiện; phù hợp với nguyên tắc yêu cầu xây xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; đảm bảo chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật về từ thiện với hệ thống pháp luật nói chung…

2. Thực trạng pháp luật về hoạt động từ thiện

Pháp luật quốc tế đã phát triển khung pháp lý hỗ trợ hoạt động từ thiện với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tại Hoa Kỳ, tuy không có luật riêng, các quy định pháp lý đã điều chỉnh toàn diện hoạt động từ thiện, tập trung vào kiểm soát sự minh bạch, giám sát, phòng chống rửa tiền, và khuyến khích thông qua ưu đãi thuế. Indonesia yêu cầu quỹ từ thiện đăng ký rõ ràng, duy trì sổ sách kế toán, công khai tài chính, và tuân thủ nghiêm ngặt quy định về rửa tiền, phòng chống tài trợ khủng bố. Trung Quốc nổi bật với Luật Từ thiện 2016, kiểm soát chặt chẽ qua yêu cầu báo cáo định kỳ, minh bạch thông tin, và xử lý nghiêm vi phạm, đồng thời áp dụng ưu đãi thuế để thúc đẩy hoạt động phúc lợi công [5].

Tại Việt Nam, Nhà nước đã ban hành nhiều quy định pháp luật để điều chỉnh hoạt động từ thiện như Nghị định 93/2021/NĐ-CP ngày 27/10/2021 về vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng góp tự nguyện hỗ trợ khắc phục khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, sự cố; hỗ trợ bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo, Nghị định số 93/2019/NĐ-CP ngày 25/11/2019 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện, Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 quy định về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội và hàng loạt các quy định nằm trong các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành như Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự năm 2015, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2015… Điều này có thể thấy khung pháp lý cho các hoạt động từ thiện ở Việt Nam đã hình thành tương đối đầy đủ, tạo điều kiện thúc đẩy tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái của người dân. Tuy nhiên, bên cạnh những tích cực, nhìn nhận vào thực trạng, pháp luật về hoạt động từ thiện xã hội ở Việt Nam hiện nay cũng bộc lộ nhiều bất cập

Thứ nhất, quy định liên quan tới vận động, kêu gọi, đóng góp tiền, hàng cứu trợ chưa phù hợp với thực tiễn. Trước tình thế Nghị định 64/2008/NĐ-CP quy định Các tổ chức, đơn vị được tiếp nhận và phân phối tiền, hàng cứu trợ không điều chỉnh chủ thể là cá nhân tham gia hoạt động từ thiện, Nghị định số 93/2021/NĐ-CP ra đời đã bước đầu khắc phục điều này. Tuy vậy, khoản 5 Điều 6, khoản 1 Điều 17 của Nghị định số 93/2021/NĐ-CP yêu cầu cá nhân tham gia vận động từ thiện phải công khai cam kết và gửi văn bản thông báo đến UBND cấp xã nơi cư trú nhưng lại chưa nêu rõ trình tự, thủ tục nếu cá nhân muốn điều chỉnh nội dung đã công khai. Ngoài ra, điểm a khoản 6 Điều 10 và khoản 1 Điều 18 quy định cá nhân vận động đóng góp phải thông báo đến UBND nơi tiếp nhận hỗ trợ để được hướng dẫn nhưng nghị định thiếu hướng dẫn cụ thể về việc cá nhân có thể tự chủ phân phối và sử dụng nguồn đóng góp trong trường hợp UBND không phản hồi kịp thời[6], tạo ra sự lúng túng, ảnh hưởng trực tiếp đến tính minh bạch và hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực đã huy động, biến những thủ tục hành chính thành rào cản cho sự sẻ chia và hỗ trợ trong cộng đồng.

Thứ hai, các quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia hoạt động từ thiện được quy định rải rác trong nhiều văn bản pháp lý khác nhau. Trong mối quan hệ từ thiện, về cơ bản sẽ chia làm 3 đối tượng chính: bên ủng hộ tài sản cho công tác từ thiện, bên nhận thụ hưởng và bên đứng ra kêu gọi (trung gian).  Hiện nay, các quy định pháp lý liên quan rải rác trong nhiều văn bản như Bộ luật Dân sự 2015, các luật nghị định về hoạt động chữ thập đỏ, quản lý viện trợ, và thuế thu nhập [7]. Các quy định về quyền và nghĩa vụ hiện chỉ dừng ở mức đề cập trong một lĩnh vực cụ thể, chưa có hướng dẫn cụ thể. Hầu như các quy định trong các văn bản này đều hướng tới một đối tượng duy nhất là bên đứng ra kêu gọi từ thiện. Kể cả khi họ được trao quyền kêu gọi, huy động từ thiện và phân phối, quản lý tài sản đóng góp của bên ủng hộ, luật không quy định và hướng dẫn các trách nhiệm của nhóm đối tượng kêu gọi này đối với các tài sản được giao. Mặt khác, luật cũng không quy định trách nhiệm của bên ủng hộ tài sản như loại tài sản ủng hộ, hạn mức ủng hộ, các cam kết đảm bảo tài sản đem đi ủng hộ phải là tài sản sở hữu hợp pháp, trách nhiệm khi các loại tài sản ủng hộ gây cho người nhận các biến chứng sau khi sử dụng…hay các quy định về việc các đối tượng nhận thụ hưởng có nghĩa vụ nhận đúng các tài sản mà mình là đối tượng được nhận, tránh các hành vi nhận từ thiện để trục lợi cá nhân.

Thứ ba, chính sách ưu đãi của pháp luật về từ thiện còn tồn tại bất cập. Mặc dù một số tổ chức từ thiện được hưởng các chính sách miễn, giảm thuế hoặc hỗ trợ tài chính từ Nhà nước, nhưng các quy định này không thực sự rõ ràng và dễ áp dụng, đặc biệt là với các tổ chức từ thiện quy mô nhỏ, cộng đồng hoặc các tổ chức chưa được cấp phép chính thức, mặc dù các tổ chức này vẫn đóng góp rất nhiều vào các hoạt động xã hội. Việc thiếu các quy định chi tiết về thủ tục và điều kiện để được hưởng ưu đãi thuế khiến cho một số tổ chức từ thiện không thể tận dụng được các lợi ích này, từ đó ảnh hưởng đến khả năng phát triển và hiệu quả hoạt động của họ, đặc biệt trong những tình huống khẩn cấp như thiên tai, dịch bệnh. Mặt khác, việc cấp phép và xác nhận các tổ chức từ thiện đủ điều kiện để nhận các ưu đãi gặp nhiều khó khăn dẫn đến tình trạng một số tổ chức không thực sự xứng đáng lại được hưởng các ưu đãi này, trong khi nhiều tổ chức có hoạt động thiện nguyện chân chính lại bị bỏ qua. Điều này không chỉ làm giảm hiệu quả của các chính sách ưu đãi mà còn làm suy giảm niềm tin của cộng đồng vào hệ thống pháp lý của Nhà nước trong việc quản lý hoạt động từ thiện.

Thứ tư, pháp luật chưa có quy định về giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động từ thiện. Về mặt bản chất, việc bên ủng hộ tài sản từ thiện giao tài sản cho bên trung gian được xác định là quan hệ dân sự khi cá nhân được coi là người đại diện theo ủy quyền của người có tài sản thực hiện chuyển giao tài sản sang cho bên thụ hưởng theo thỏa thuận trước đó. Tuy Nghị định số 93/2021/NĐ-CP đã có bước tiến quy định cá nhân vận động đóng góp từ thiện phải thực hiện các cam kết đối với bên đóng góp nhưng lại không quy định và có hướng dẫn cụ thể về hình thức, nội dung đối với các cam kết này, không đưa ra chế tài cụ thể đối với các hành vi không thực hiện đúng cam kết dẫn tới việc các cơ quan có thẩm quyền không có cơ sở pháp lý vững chắc để xử lý các hành vi vi phạm.

Với quy định hiện hành, việc giám sát hoạt động từ thiện chủ yếu được thực hiện qua các cơ quan nhà nước, như Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc các cơ quan chức năng có thẩm quyền, tuy nhiên lại không đề cập đầy đủ đến trách nhiệm của các cơ quan này. Thêm vào đó việc thiếu các quy định về báo cáo tài chính của các tổ chức, cá nhân vận động từ thiện dẫn tới tình trạng khó có thể xác minh được số tài sản đã đóng góp, số tài sản đã được sử dụng, đối tượng thụ hưởng và mục đích từ thiện, gây ảnh hưởng đến niềm tin của cộng đồng đối với hoạt động từ thiện.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những tồn tại, bất cập trong hệ thống pháp luật về hoạt động từ thiện ở nước ta. Nguyên nhân chủ quan là do sự hạn chế trong năng lực của đội ngũ cán bộ xây dựng pháp luật; hạn chế về trình độ kỹ thuật lập pháp cũng như quy trình xây dựng pháp luật. Nguyên nhân khách quan là sự phức tạp của các hoạt động từ thiện trong bối cảnh khi mà nước ta nằm trong khu vực thường xuyên xảy ra thiên tai, bão lũ, dịch bệnh; những yếu tố chính trị, yếu tố quốc tế ảnh hưởng thường xuyên, trực tiếp đến hoạt động từ thiện trong nước trong khi trình độ phát triển kinh tế của đất nước còn hạn chế dẫn đến nhận thức về hoạt động từ thiện còn chưa đầy đủ, các hoạt động từ thiện diễn ra manh mún, tự phát, tiềm ẩn nhiều tiêu cực….

3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động từ thiện tại Việt Nam

Những hạn chế trong pháp luật về hoạt động từ thiện dẫn đến thực hiện pháp luật về hoạt động từ thiện ở nước ta đã cho thấy nhiều tồn tại, bất cập. Ví dụ như theo khảo sát của Viện Nghiên cứu Pháp luật và Trợ giúp pháp lý [8] về 66 Quỹ từ thiện tại Việt Nam cho thấy tình hình còn khá phức tạp. Các quỹ được phân chia theo các lĩnh vực như phát triển văn hóa, giáo dục; bảo vệ, chăm sóc người yếu thế; y tế; phát triển cộng đồng; và khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh. Dựa trên ba tiêu chí chính: (i) minh bạch tài chính, (ii) công khai điều lệ hoạt động, và (iii) cung cấp nguồn thông tin để nhà tài trợ theo dõi, chỉ có 8 quỹ đáp ứng đầy đủ cả ba tiêu chí. Ngược lại, 8 quỹ hoàn toàn không đạt được bất kỳ tiêu chí nào, trong khi 50 quỹ còn lại chỉ đáp ứng được một phần. Đáng chú ý, nhiều quỹ trong nhóm 50 này không có trang thông tin chính thức, hoặc thông tin nằm rải rác trên các nền tảng không thuộc quyền quản lý của quỹ, dẫn đến việc không thể truy cập điều lệ hoạt động hoặc theo dõi các hoạt động thường xuyên. Một số quỹ có trang điện tử hoặc mạng xã hội nhưng không công khai báo cáo tài chính, hoặc chỉ đăng tải các báo cáo từ nhiều năm trước. Thậm chí, có những quỹ chỉ công bố các khoản thu mà không minh bạch về các khoản chi. Từ đó có thể thấy những lỗ hổng trong quản lý và giám sát đã khiến những hạn chế trong cách thức tổ chức và quản lý từ thiện đã đòi hỏi việc xây dựng một khung pháp lý hoàn chỉnh, chi tiết và phù hợp với thực tế, giúp ngăn chặn các hành vi trục lợi, bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia, góp phần tạo dựng một nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững, lan tỏa ý nghĩa của sự sẻ chia, tương thân tương ái trong xã hội.

Để hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động từ thiện ở Việt Nam, một số giải pháp được đưa ra như:

Thứ nhất, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động từ thiện thông qua nâng cao vai trò quản lý và giám sát hoạt động từ thiện; tham gia góp ý xây dựng, cập nhật và hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động từ thiện; Tham gia tư vấn, phản biện xã hội đối với dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động từ thiện…nhằm đảm bảo tính đồng bộ, rõ ràng của các quy định pháp luật, đồng thời hướng dẫn và kiểm tra việc thực thi, phối hợp chặt chẽ với các tổ chức xã hội, tổ chức từ thiện và cơ quan chức năng nhằm đảm bảo minh bạch trong việc tiếp nhận và phân phối tài trợ. Bên cạnh đó, cần thiết lập cơ chế thanh tra, kiểm tra định kỳ và đột xuất để kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm, lạm dụng quỹ hoặc quản lý tài chính thiếu hiệu quả.

Thứ hai, cần xây dựng luật về hoạt động từ thiện nhằm điều chỉnh một cách toàn diện các hoạt động từ thiện, bao gồm quy trình thành lập tổ chức, vận động và tiếp nhận nguồn lực, cũng như việc phân phối tài trợ và giám sát. Bên cạnh đó, các quy định về hoạt động từ thiện cần được đồng bộ hóa với các bộ luật liên quan và các quy định tài chính, giúp các quy định này hỗ trợ lẫn nhau, đảm bảo quyền lợi của các cá nhân, tổ chức tham gia từ thiện được bảo vệ đầy đủ và minh bạch, đồng thời hạn chế tối đa các lỗ hổng pháp lý và mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật.

Thứ ba, cần sửa đổi, bổ sung Nghị định số 93/2021/NĐ-CP theo hướng: (i) Quy định rõ ràng về quyền thay đổi nội dung của các cuộc vận động từ thiện, đồng thời hướng dẫn cụ thể thủ tục thực hiện; (ii) Cụ thể hóa các thủ tục phân phối nguồn đóng góp, đặc biệt là quy định quyền tự chủ của cá nhân khi không nhận được phản hồi từ Ủy ban nhân dân trong thời gian quy định; (iii) Đảm bảo các cam kết giữa cá nhân vận động và các tổ chức, cá nhân ủng hộ phải được lập thành văn bản hoặc thông qua phương tiện điện tử theo đúng quy định của pháp luật [9]. Điều này giúp xác định rõ trách nhiệm của các bên tham gia, bảo vệ quyền lợi của nhà hảo tâm và thụ hưởng, đồng thời tạo ra một hệ thống kiểm tra và giám sát hiệu quả, giảm thiểu tình trạng lạm dụng trong việc huy động và sử dụng nguồn lực từ thiện.

Thứ tư, về vấn đề kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động từ thiện cần bổ sung các quy định theo hướng: (i) Quy định rõ về trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc giám sát các nguồn đóng góp, quá trình phân phối tài trợ và đảm bảo việc sử dụng tài sản đúng mục đích từ thiện. Đồng thời, các cơ quan này cần có nghĩa vụ cung cấp thông tin đầy đủ và minh bạch về các hoạt động từ thiện mà họ giám sát, tạo sự tin tưởng cho cộng đồng; (ii) Quy định các chế tài hành chính, chế tài dân sự và chế tài hình sự cụ thể đối với những hành vi lợi dụng hoạt động từ thiện để trục lợi cá nhân hoặc không thực hiện đúng cam kết với bên đóng góp; (iii) Yêu cầu các tổ chức và cá nhân vận động từ thiện phải công khai, minh bạch báo cáo tài chính định kỳ về việc sử dụng nguồn tài trợ giúp ngăn ngừa tình trạng lạm dụng hoặc quản lý tài chính kém hiệu quả trong các hoạt động từ thiện.

Thứ năm, Việt Nam cần xây dựng và triển khai các chính sách hỗ trợ mạnh mẽ hơn để thúc đẩy hoạt động từ thiện, điển hình là ưu đãi thuế đối với các khoản quyên góp, chính sách tuyên truyền và khuyến khích các cá nhân, tổ chức tham gia vào các hoạt động từ thiện và xây dựng cơ chế bảo vệ quyền lợi cho các nhà hảo tâm và người nhận hỗ trợ. Thêm vào đó, Chính phủ có thể thiết lập các quỹ hỗ trợ từ thiện quốc gia hoặc các quỹ địa phương nhằm tạo nguồn lực ổn định và hỗ trợ kịp thời cho các hoạt động từ thiện, đặc biệt là trong các tình huống thiên tai, dịch bệnh hoặc hỗ trợ các đối tượng yếu thế.

Thứ sáu, Chính phủ, tổ chức quản lý hoạt động từ thiện và các tổ chức từ thiện cần tiến hành việc xây dựng hệ thống thông tin điện tử công khai về các hoạt động và các nguồn tài trợ giúp người dân dễ dàng tra cứu, kiểm tra và tham gia giám sát. Đồng thời tăng cường các chiến dịch truyền thông làm nổi bật các mô hình từ thiện hiệu quả, tuyên truyền về các chính sách, pháp luật liên quan, giúp người dân hiểu rõ quyền lợi và trách nhiệm khi tham gia. Công tác khen thưởng cũng cần được chú trọng, như tặng bằng khen hoặc huy chương cho các tổ chức, cá nhân xuất sắc trong công tác từ thiện, đồng thời công nhận những đóng góp vô hình trong việc cải thiện công tác tổ chức và quản lý, từ đó phát huy được sức mạnh tổng hợp trong các chiến dịch từ thiện.

Kết luận

Hoạt động từ thiện, với bản chất nhân văn, đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ cộng đồng, đặc biệt trong các tình huống khẩn cấp như thiên tai, dịch bệnh. Tuy nhiên, dù pháp luật đã có những quy định điều chỉnh, hệ thống văn bản pháp lý về từ thiện hiện nay vẫn còn thiếu sự thống nhất, rõ ràng và đầy đủ, dẫn đến bất cập trong thực thi và thiếu hiệu quả. Học hỏi từ kinh nghiệm quốc tế, Việt Nam cần xây dựng một bộ luật riêng biệt, đầy đủ, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để quản lý, giám sát và bảo đảm tính minh bạch trong việc tiếp nhận, phân phối nguồn lực từ thiện, đồng thời có những chính sách khuyến khích hỗ trợ hoạt động này. Điều này không chỉ ngăn ngừa lạm dụng mà còn tạo điều kiện cho hoạt động từ thiện phát triển bền vững, nâng cao niềm tin của cộng đồng, góp phần xây dựng một xã hội công bằng.

------------

Tài liệu tham khảo:

[1] Từ điển tiếng Việt. NXB Đà Nẵng, 2003, tr. 1.073.

[2] Đặng Nguyên Anh, 2015, Từ thiện xã hội cấp cộng đồng ở Việt Nam hiện nay, Xã hội học số 4 (132), tr.34.

[3] Viện Khoa học pháp lý (2006). Từ điển Luật học. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa và Nhà xuất bản Tư pháp.

[4] International Federation of Red Cross and Red Crescent Societies, "Humanitarian Response and Development," accessed December 3, 2024, https://www.ifrc.org; Oxfam, "Our Work," accessed December 3, 2024, https://www.oxfam.org; Bill & Melinda Gates Foundation, "Global Health," accessed December 3, 2024, https://www.gatesfoundation.org

[5] Luật Từ thiện Trung Quốc 2016

[6] ThS. Nguyễn Thanh Tùng, ThS. Nguyễn Tiến Lực (2022), Hoạt động từ thiện xã hội – thực trạng và giải pháp, Tạp chí Quản lý nhà nước

[7] Bùi Thanh Thúy (2022), Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia hoạt động từ thiện, nhân đạo theo quy định pháp luật, Tạp chí Quản lý nhà nước - Số 323, tr.49 (12/2022)  

[8] Nguyễn Trung Thành (2024), Hoạt động từ thiện, nhân đạo và những vấn đề đặt ra ở Việt Nam hiện nay, Đề tài khoa học do Quỹ Phát triển khoa học và Công nghệ quốc gia tài trợ

 [9]. Nguyễn Thanh Tùng, Nguyễn Tiến Lực (2022), Hoạt động từ thiện xã hội – thực trạng và giải pháp, Tạp chí Quản lý nhà nước

Tác giả: TS Nguyễn Trung Thành, Viện Khoa học Môi trường và Xã hội
Nguồn: Tạp chí Giáo dục lý luận, số 386, tr.68-72.
Thong ke

Tiến sĩ Nguyễn Trung Thành

Phạm Trọng Đạt

Tiến sĩ Bùi Hải Thiêm

Tỉ giá hối đoái