Phục hồi sinh kế cho lao động di cư sau đại dịch COVID 19 ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
08:58 12/10/2022
Tác động của đại dịch COVID-19 đến sinh kế lao động di cư
Sinh kế bao gồm năng lực, tài sản và các hoạt động kiếm sống. Một sinh kế bền vững là một sinh kế có thể đối phó và phục hồi trước những sức ép và cú sốc, duy trì hoặc nâng cao năng lực, tài sản và cung cấp các cơ hội kiếm sống bền vững cho thế hệ tiếp theo và đóng góp lợi ích vào sinh kế của những người khác.
Trên thế giới, vào nửa sau của thế kỷ XX, đặc biệt từ những năm 90, tình trạng di cư diễn ra phổ biến với số lượng gia tăng nhanh chóng và trở thành hiện tượng toàn cầu. Lao động di cư là một nguồn đóng góp vào tăng trưởng kinh tế ở nơi đến - thường là các thành phố lớn hoặc các khu vực đang đô thị hóa nhanh. Đối với nhiều nước trên thế giới, thông thường, lao động tinh hoa, chất lượng cao khi thấy ở địa phương nơi xuất cư không còn không gian phát triển với năng lực của mình thì họ tiến ra thành phố để tìm việc. Nhưng cũng có nhiều trường hợp, người lao động khi gặp những khó khăn trong mưu sinh ở quê thì mới ra thành phố hoặc khu đô thị kiếm việc làm.
Ở nước ta, trước lực hút nơi nhập cư và lực đẩy nơi xuất cư, sinh kế được coi là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến chuyển cư của lực lượng lao động, với nhiều hình thức di cư khác nhau tùy vào các tiêu chí đánh giá, như khoảng cách giữa nơi xuất cư và nơi nhập cư, mục đích di cư,.... Hiện nay, chủ yếu là hình thức di cư trong nước, giữa các tỉnh, thành phố, mà Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là hai điểm đến chiếm đa số với những điều kiện thuận lợi về kinh tế, văn hóa, sự hấp dẫn bởi cơ hội việc làm, thu nhập, mức sống, an sinh xã hội. Lao động di cư trong huyện và trong tỉnh chiếm tỷ lệ thấp. Đối với trường hợp di cư trong tỉnh, lao động di cư chủ yếu tập trung đến tỉnh lỵ.
Cuối năm 2019, đầu năm 2020, đại dịch COVID-19 xảy ra đã cho thấy rõ sự phụ thuộc của thành phố và các khu vực đô thị vào sức lao động của người di cư. Đến năm 2021, đại dịch bùng phát mạnh, do ảnh hưởng bởi sinh kế thiếu bền vững, một số lượng khá lớn lao động hồi cư khiến tình trạng khủng hoảng lao động diễn ra trầm trọng. Sang đến quý IV-2021 và quý I-2022, với những điều chỉnh về chủ trương, chính sách, thị trường lao động đã có sự biến chuyển tích cực hơn. Tuy nhiên, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho rằng khả năng phục hồi của thị trường lao động chậm và không chắc chắn do đại dịch sẽ tiếp tục tác động đáng kể đến thị trường lao động toàn cầu(1); Việt Nam không nằm ngoài xu hướng này.
Về năng lực
Lao động di cư ở Việt Nam phần lớn tham gia thị trường lao động không đòi hỏi cao về trình độ chuyên môn kỹ thuật. Lao động di cư từ 15 tuổi trở lên không có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm 78,8%, trình độ sơ cấp chiếm 4,3%, trung cấp chiếm 3,9%, cao đẳng chỉ có 3,3% và đại học chiếm 9,2%. Mặt khác, tỷ lệ thất nghiệp của lao động di cư của Việt Nam lại cao hơn lao động không di cư (2,53% so với 2,01%). Trong tổng số lao động di cư đang thất nghiệp, hơn hai phần ba (69,7%) là những người di cư tới thành thị, chỉ có một phần ba là lao động di cư tới nông thôn(2).
Do thiếu trình độ chuyên môn kỹ thuật nên thu nhập người di cư bấp bênh, kém ổn định. Khi có những cú sốc về sự biến đổi kinh tế - xã hội, như đại dịch COVID-19, lao động di cư dễ buông bỏ, quay về nơi xuất cư. Thực tế ở Việt Nam, làn sóng lao động di cư quay về nơi xuất cư trong quý III và quý IV-2021 đã minh chứng rõ điều đó.
Về tài sản
Số liệu của Tổng cục Thống kê (năm 2020) chỉ ra, tỷ lệ người lao động di cư (phi chính thức) chiếm khoảng 70% lực lượng lao động tại các thành phố lớn và các khu công nghiệp, nhưng thu nhập bấp bênh, chỉ bằng 2/3 tiền lương của lao động chính thức (khoảng 4,4 triệu đồng/người/tháng). Các nghiên cứu ban đầu về vấn đề nhà ở chỉ ra: Ở Việt Nam, phần lớn lao động làm việc tại các khu công nghiệp là người nghèo, ít có nhu cầu mua nhà bởi họ luôn có tâm lý mình là người ngụ cư, không có tâm lý định cư lâu dài tại đô thị. Năm 2019, có 43,0% người di cư đang phải sống trong các căn nhà thuê mượn, cao hơn gần 8 lần so với người địa phương(3). Lao động di cư ra thành thị và các khu công nghiệp chủ yếu đi thuê nhà, ở nhờ nhà; tỷ lệ sở hữu nhà rất thấp.
Nhìn chung, tài sản của người lao động di cư còn bấp bênh và gặp nhiều khó khăn khi không có nhà ở cố định, chủ yếu phải đi thuê, diện tích nhà và tiện nghi sinh hoạt rất hạn chế. Do thu nhập thấp, phải sống trong những khu nhà thuê, nhà trọ chật chội, lại phải trả mức phí cao hơn cho các tiện ích sinh hoạt nên ảnh hưởng đến việc chi tiêu sinh hoạt của gia đình. Đồng thời, do gánh nặng chi tiêu cũng như chi phí học hành tại nơi đến nên phần lớn người di cư không mang theo con cái mà cho ở lại quê nhà.
Về lao động, việc làm
Năm 2020, Việt Nam đã đạt được những thành công nhất định trong kiểm soát COVID-19, với tỷ lệ ca mắc trên 1 triệu dân thuộc nhóm thấp nhất thế giơi. Mặc dù vậy, thị trường lao động vẫn chịu ảnh hưởng khá nghiêm trọng. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, tính đến hết năm 2020, cả nước có khoảng 32,1 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi COVID-19. Trong đó, 69,2% bị giảm thu nhập, 39,9% phải giảm giờ làm hoặc nghỉ luân phiên và khoảng 14% buộc phải tạm ngừng hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động của Việt Nam tính trong cả năm 2020 là 2,48%, cao hơn 0,31 điểm phần trăm so với năm 2019(4). Đến năm 2021, số lao động có việc làm chính thức và phi chính thức đều giảm. Số lao động có việc làm phi chính thức là 19,8 triệu người, giảm 628 nghìn người, mức giảm này cao hơn so với mức giảm ở lao động có việc làm chính thức; số lao động có việc làm chính thức là 15,4 triệu người, giảm 469,8 nghìn người so với năm 2020(5).
Về lao động, năm 2020, số người di cư từ 15 tuổi trở lên là 877,8 nghìn người, trong đó 55% là phụ nữ và phần lớn là di chuyển đến khu vực thành thị (69%). Tuy vậy, tỷ lệ người di cư trên tổng dân số 15 tuổi trở lên vẫn khá thấp (1,2%), ở thành thị cao hơn 3,6 lần so với nông thôn (2,2% so với 0,6%). Khu vực trung du miền núi phía Bắc là 40,8 nghìn người, chiếm tỷ lệ 4,7% tổng số cả nước(6). Trong tổng số người di cư từ 15 tuổi trở lên, có tới 76,4% tham gia vào lực lượng lao động, tương đương 670,6 nghìn người, cao hơn so với tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của dân số 2,0 điểm phần trăm (74,4%). Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của người di cư chênh lệch đáng kể giữa nam (82,3%) và nữ (71,6%) và không đồng đều giữa các vùng. Theo xu hướng chung, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của người di cư ở khu vực nông thôn được tìm thấy là cao hơn khu vực thành thị 15,2 điểm phần trăm (86,9% so với 71,7%). Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của người di cư cao nhất là ở vùng trung du và miền núi phía Bắc (88%) và thấp nhất là ở vùng đồng bằng sông Hồng (71,1%)(7).
Vấn đề lớn nhất đối với lao động di cư sau đại dịch COVID-19 là việc làm, do nhiều lao động phải đối mặt với tình trạng việc làm bấp bênh, không ổn định, tiền công lao động giảm xuống. Năm 2020, tỷ lệ người di cư có việc làm ở khu vực nông thôn luôn cao hơn so với khu vực thành thị (77,2% so với 65,2%). Khu vực trung du và miền núi phía Bắc có tỷ lệ việc làm trên dân số của người di cư cao nhất cả nước (81,1%) và thấp nhất là Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung (61%). Trong tổng số 371,9 nghìn người di cư thanh niên, số có việc làm chiếm 53,6% (199,3 nghìn người)(8).
Về tình trạng thất nghiệp ở đối tượng lao động di cư, năm 2020, cả nước có khoảng 65,8 nghìn người di cư thất nghiệp, chiếm 5,34% trong tổng số người thất nghiệp cả nước. Điều đáng nói là, tỷ lệ thất nghiệp của người di cư (9,82%) cao gấp gần 5 lần so với tỷ lệ thất nghiệp của dân số từ 15 tuổi trở lên (hiện là 2,25%). Trong số đó, tỷ lệ thất nghiệp của người di cư ở nông thôn (11,18%) cao hơn thành thị (9,08%); tỷ lệ thất nghiệp của nữ di cư cao hơn so với tỷ lệ này của nam (10,84% so với 8,73%). Theo xu hướng chung, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên luôn cao nhất ở cả nhóm di cư và dân số chung (tương ứng là 14,10% và 7,21%). Nếu tính theo vùng, tỷ lệ thất nghiệp của người di cư thấp nhất thuộc về Đông Nam Bộ (7,29%) và cao nhất là Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung (20,72%)(9).
Sang năm 2021, nhất là từ khi đợt đại dịch COVID-19 lần thứ tư bùng phát vào cuối tháng 4, thị trường lao động rơi vào trạng thái biến động khó lường, gây sức ép nặng nề về mọi mặt cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và cho thị trường lao động nói riêng trong quý III-2021. Tình trạng khủng hoảng việc làm nghiêm trọng diễn ra với hàng loạt kỷ lục tiêu cực được xác lập, hàng triệu lao động bị mất việc làm, bị cắt giảm thu nhập. Cơ hội kiếm được việc làm của người lao động di cư trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong quý III-2021, tỷ lệ và số người thiếu việc làm tăng cao bất thường; tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động ở Thành phố Hồ Chí Minh là 8,50%, cao hơn 3,6 lần so với thành phố Hà Nội (2,39%); tỷ lệ thất nghiệp tăng đột biến, vượt xa con số 2% như thường thấy, trong đó Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long là hai vùng có tỷ lệ thất nghiệp tăng cao nhất và cao hơn rất nhiều so với mức chung của cả nước; tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng là 10,4%, cao hơn nhiều so với mức tăng đã từng ghi nhận vào quý II-2020(10).
Có thể thấy trên thực tế, khi dịch bệnh kéo dài, một bộ phận người lao động di cư, do áp lực về tài chính hoặc từ những dự định trước đó, đã quay về nơi xuất cư hoặc chuyển hướng sang một số việc làm tự do đang khá phổ biến, như buôn bán trực tuyến, kinh doanh nhỏ lẻ, sản xuất hàng thủ công, hoặc theo đuổi mô hình kinh tế hộ gia đình,... Sự lựa chọn này của người lao động là nhằm cải thiện sinh kế cũng như nâng cao khả năng tiếp cận cơ hội về các chính sách an sinh...
Về chính sách an sinh đối với lao động di cư
Mặc dù lao động di cư đóng vai trò quan trọng trong lực lượng lao động ở các đô thị trong cả nước nhưng họ vẫn là nhóm dễ bị tổn thương nhất vì ít được bảo vệ bởi các chính sách an sinh xã hội. Các phân tích chuyên sâu ở Việt Nam chỉ ra rằng, lao động di cư thường chịu nhiều thiệt thòi hơn các đối tượng lao động khác. Người lao động di cư tham gia lực lượng lao động cả chính thức lẫn phi chính thức, tuy nhiên xét trên nhiều góc độ, lao động di cư phi chính thức còn có thể chưa được hưởng những quyền lợi đầy đủ từ các chính sách an sinh xã hội đã ban hành, như lao động, việc làm, giảm nghèo, bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội, các dịch vụ xã hội cơ bản, như y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, tiếp cận thông tin(11)...
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, năm 2020, Việt Nam có 38% người di cư lâu dài, 40% người di cư tương đối lâu dài; có 46% người di cư tạm thời đang sinh sống và làm việc ở đô thị không có thẻ bảo hiểm y tế (BHYT). Người lao động di cư chính thức mua BHYT theo hình thức BHYT bắt buộc; lao động di cư phi chính thức mua BHYT tự nguyện theo hình thức cá nhân hoặc hộ gia đình. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, chính sách BHYT cấp miễn phí cho hộ nghèo và hộ chính sách tại quê - nơi xuất cư, chỉ có giá trị sử dụng tại nơi xuất cư chứ không phải nơi di cư đến. Chính vì vậy, khi cần khám, chữa bệnh nhiều người lại trở về quê để sử dụng BHYT.
Có thể thấy, các chính sách an sinh xã hội cho lao động, đặc biệt là lao động di cư chưa thực sự phù hợp với nhu cầu của người lao động do nguồn lực còn hạn chế, thiếu tính kết nối, dẫn đến quyền thụ hưởng an sinh của người lao động di cư còn gặp nhiều thách thức. Thực trạng trên cho thấy, cần có những giải pháp thiết thực hơn nữa nhằm góp phần nâng sức chống chịu, tạo sinh kế bền vững cho lao động di cư trước những biến động khó lường của tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước thời gian tới.
Một số giải pháp
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm thực hiện mục tiêu tạo sự bình đẳng cho các đối tượng lao động; trong đó, lao động di cư là nhóm dễ bị tổn thương và gặp nhiều khó khăn trong việc bảo đảm sinh kế bền vững. Ngày 13-11-2020, Quốc hội khóa XIV ban hành Luật Cư trú năm 2020, được xem là bước tiến mới trong việc tăng cơ hội tiếp cận chính sách an sinh xã hội và dịch vụ công dễ dàng, thuận tiện cho người lao động di cư. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII “Về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” tiếp tục khẳng định: Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động; có cơ chế, chính sách để định hướng dịch chuyển lao động, phân bố hợp lý lao động theo vùng; lao động di cư và gia đình được tiếp cận bình đẳng các dịch vụ xã hội.
Việt Nam đã cam kết nỗ lực đạt được các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, trong đó tất cả các mục tiêu đều có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới các quá trình di cư, những trải nghiệm của người di cư và gia đình của họ; trên cơ sở đó xây dựng các mục tiêu cụ thể phù hợp với bối cảnh riêng và các mục tiêu phát triển của Việt Nam, như giảm sự yếu thế, giảm sự mất công bằng giữa các dân tộc và bảo đảm sự phát triển kết cấu hạ tầng cho nhóm lao động di cư nghèo.
Trong bối cảnh của đại dịch COVID-19 bùng phát, nhằm huy động sức mạnh của toàn hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các địa phương và nhân dân vào cuộc chiến chống dịch, ngày 30-3-2020, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ra Lời kêu gọi đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài đoàn kết cùng chống dịch COVID-19. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các chính sách hỗ trợ người lao động kịp thời và chưa có tiền lệ(12).
Bước sang năm 2022, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, kịp thời của Đảng, Nhà nước, sự phối hợp chặt chẽ của các ngành, địa phương, cộng đồng quốc tế, các đợt bùng phát dịch được kiểm soát, cả nước thực hiện thích ứng an toàn, linh hoạt, từng bước bình thường mới các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Với quyết tâm phục hồi và phát triển kinh tế để không lỡ nhịp với đà phục hồi của kinh tế thế giới, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP, ngày 30-1-2022, “Về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình”, qua đó, chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tập trung xây dựng kế hoạch hành động để thực hiện đồng bộ các giải pháp. Nhờ vậy, thị trường lao động, việc làm của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2022 có chuyển biến tích cực.
Cùng với các chủ trương, chính sách phục hồi kinh tế - xã hội sau đại dịch COVID-19, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách bao phủ tới đối tượng lao động di cư. Tuy nhiên, làm thế nào để người lao động di cư ra thành phố kiếm tiền có thể quay về nơi xuất cư đầu tư sản xuất, phát triển quê hương; đồng thời, tái đầu tư sức lao động nhằm nâng cao giá trị và thu nhập là điều cần lưu tâm đối với những người xây dựng chính sách hiện nay. Trong dài hạn, có thể tập trung vào các nội dung chính sau:
Một là, tiếp tục xây dựng, đổi mới chính sách dành cho lao động di cư: 1- Cần ưu tiên tập trung chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Ở các vùng nông thôn, cần có chiến lược đào tạo nghề phù hợp, có điểm đích cho người lao động của địa phương. Chương trình đào tạo cần phải được tính toán, đánh giá được số lao động có nhu cầu di cư để tư vấn và định hướng phù hợp. Việc đào tạo nghề không chỉ tập trung vào nội dung công việc mà cần trang bị thêm các kiến thức về sinh hoạt, kỹ năng sinh tồn và chuyển đổi nghề nghiệp ở thành phố; 2- Chính sách hỗ trợ tạo việc làm từ Quỹ quốc gia về việc làm và các nguồn vốn sinh kế cộng đồng, nguồn tín dụng khác; hỗ trợ phát triển dịch vụ việc làm; 3- Chính sách phát triển đồng đều các vùng để giảm bớt mức độ di chuyển lao động và giảm bớt gánh nặng kinh tế - xã hội của thành phố; 4- Các chính sách an sinh xã hội: bảo hiểm xã hội tự nguyện; an toàn, vệ sinh lao động; chính sách về nhà ở cho người lao động di cư...
Hai là, tạo cơ hội việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo bền vững cho lao động di cư, tạo ra các nguồn lực và cơ hội tiếp cận cũng như sử dụng nguồn vốn cho sinh kế thông qua các hoạt động hỗ trợ tín dụng, kết nối thông tin với thị trường lao động và chuyển đổi nghề nghiệp. Thông tin tuyên truyền kịp thời các chính sách thu hút lao động, chính sách hỗ trợ học nghề thuộc danh mục nghề khuyến khích đào tạo của địa phương; thông tin các nhu cầu tuyển dụng lao động số lượng lớn của các doanh nghiệp trên địa bàn của các địa phương nhằm đáp ứng, thu hút, phát triển nguồn lao động tại chỗ một cách lâu dài. Đối với những người lao động phải di chuyển để tìm việc, động lực lớn nhất để họ quay trở lại nơi làm việc là khả năng tìm được công việc mới bằng hoặc tốt hơn công việc đã làm trước đó trong một môi trường được bảo đảm an toàn. Do đó, cần có sự tư vấn hỗ trợ của các tổ chức dịch vụ việc làm để lao động di cư được tiếp cận thông tin việc làm một cách nhanh chóng, đáng tin cậy.
Ba là, tăng cường công tác quản lý. Những lao động di cư, nhất là lao động di cư phi chính thức, không có khai báo tạm trú hiện không được hưởng các dịch vụ an sinh xã hội theo quy định. Chính quyền nơi đến cần có sự quan tâm, sát sao hơn trong việc hỗ trợ người di cư ổn định đời sống và hỗ trợ trong trường hợp khẩn cấp. Đối với các nhu cầu về dịch vụ tư vấn y tế, các trạm y tế ở nơi đến cần có cơ chế linh hoạt hơn đối với những đối tượng không đăng ký tạm trú, tạm vắng. Đồng thời, cần tuyên truyền để người lao động di cư biết cách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của mình, chủ động tìm kiếm các dịch vụ y tế công ích tại địa phương đến.
Bốn là, thu hẹp khoảng trống trong an sinh xã hội và bảo đảm toàn dân được tiếp cận an sinh xã hội toàn diện, đầy đủ và bền vững. Mở rộng cơ hội cho lao động di cư tham gia các loại hình bảo hiểm (BHYT, bảo hiểm xã hội, trợ cấp mất việc làm) để chủ động đối phó khi thu nhập bị giảm hoặc bị mất việc làm do rủi ro phát sinh, nhằm tăng tiếp cận của lao động di cư với hệ thống dịch vụ xã hội cơ bản, như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi trường, thông tin... Khuyến khích dịch vụ cho thuê nhà hợp pháp đi kèm với việc nâng cao ý thức trách nhiệm của chủ nhà cho thuê trong việc khai báo tạm trú cho người thuê trọ. Đẩy mạnh triển khai, phát triển các công trình văn hóa công cộng, tăng cường các hoạt động văn hóa tinh thần, từng bước nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần cho lao động di cư. Thường xuyên quan tâm, hỗ trợ đối với lao động di cư có hoàn cảnh khó khăn, đặc biệt là khi họ gặp các rủi ro không lường trước hoặc vượt quá khả năng kiểm soát (thiên tai, dịch bệnh, mắc bệnh hiểm nghèo,...).
Năm là, huy động sức mạnh của cộng đồng. Huy động sự chung tay của cộng đồng trong phòng, chống dịch bệnh là thành công lớn của Đảng và Nhà nước, đặc biệt tinh thần lá lành đùm lá rách, cố kết cộng đồng, tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam đã được phát huy trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19 vừa qua. Trong bối cảnh lao động, việc làm chưa thực sự ổn định sau dịch bệnh COVID-19 và nhiều vấn đề xã hội phát sinh, việc phát huy hơn nữa sức mạnh cộng đồng là cần thiết, song cần có quy định cụ thể để các tổ chức, cá nhân hoạt động theo đúng quy chế, điều lệ, tuân thủ pháp luật. Những tổ chức, cá nhân này không chỉ có vai trò gây quỹ cộng đồng ủng hộ người có hoàn cảnh khó khăn, mà còn phải hoạt động trên cơ sở thượng tôn pháp luật, cùng nhau tạo ra sự thay đổi tích cực và phục hồi sinh kế cho người lao động di cư - những người thuộc nhóm yếu thế, sau khi đại dịch COVID-19 đi qua./.
(2) Tổng cục Thống kê: “Thông cáo báo chí Kết quả nghiên cứu chuyên sâu tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019”, Trang thông tin điện tử Tổng cục Thống kê, ngày 18-12-2020, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2020/12/thong-cao-bao-chi-ket-qua-nghien-cuu-chuyen-sau-tong-dieu-tra-dan-so-va-nha-o-nam-2019/
(3) Tổng cục Thống kê: “Thông cáo báo chí Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 và chỉ số phát triển con người Việt Nam 2016 - 2020”, Trang thông tin điện tử Tổng cục Thống kê, ngày 19-12-2019, https://www.gso.gov.vn/su-kien/2019/12/thong-cao-bao-chi-ket-qua-tong-dieu-tra-dan-so-va-nha-o-nam-2019/
(4) Tổng cục Thống kê: “Thông cáo Báo chí tình hình lao động việc làm Quý IV năm 2020”, Trang thông tin điện tử Tổng cục Thống kê, ngày 6-1-2021, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/01/thong-cao-bao-chi-tinh-hinh-lao-dong-viec-lam-quy-iv-va-nam-2020/
(5) Tổng cục Thống kê: “Thông cáo Báo chí tình hình lao động việc làm Quý IV năm 2021 và chỉ số phát triển con người Việt Nam 2016 - 2020”, Trang thông tin điện tử Tổng cục Thống kê, ngày 6-1-2022, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2022/01/thong-cao-bao-chi-tinh-hinh-lao-dong-viec-lam-quy-iv-nam-2021-va-chi-so-phat-trien-con-nguoi-viet-nam-2016-2020/
(6), (7) Tổng cục Thống kê: Báo cáo điều tra Lao động việc làm năm 2020, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2021, tr. 46, 48
(8), (9) Tổng cục Thống kê: Báo cáo điều tra Lao động việc làm năm 2020, Sđd, tr. 49, 50
(10) Xem: Tổng cục Thống kê: “Lao động việc làm tác động của COVID-19”, https://www.gso.gov.vn/wp content/uploads/2021/10/LDVL_QIII_2021_FINAL-1.pdf
(11) Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: “Tăng cơ hội tiếp cận dịch vụ việc làm cho lao động di cư”, Cổng thông tin điện tử Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, ngày 28-5-2019, http://www.molisa.gov.vn/Pages/tintuc/chitiet.aspx?tintucID=29656
(12) Ngay trong tháng 4-2020, Nghị quyết số 42/NQ-CP, của Chính phủ, “Về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19” và Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg, của Thủ tướng Chính phủ, “Quy định về việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19” nhằm hỗ trợ người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 đã được ban hành. Tiếp đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành các chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn trong đại dịch, như Nghị quyết số 68/NQ-CP, ngày 1-7-2021, của Chính phủ, “Về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19” và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg, ngày 7-7-2021, của Thủ tướng Chính phủ, “Quy định về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19”...