Phát triển thương mại trong bối cảnh mới - Thực tiễn, vấn đề và giải pháp
15:59 04/08/2022
Thành tựu phát triển thương mại sau hơn 35 năm đổi mới
Mạng lưới thương mại không ngừng mở rộng
Mạng lưới bán lẻ truyền thống và hiện đại tiếp tục “phủ sóng” trên các địa bàn, đáp ứng sự gia tăng cả về quy mô và trình độ phát triển, nhu cầu mua sắm của các tầng lớp dân cư. Cả nước hiện có 1.163 siêu thị và 250 trung tâm thương mại, với các thương hiệu mạnh đến từ các nước như: Lotte, Central Group, TCCGroup, Aeon, CircleK, KMart, Auchan, Family Mart,... Toàn quốc đã thiết lập trên 100 điểm bán hàng cố định “Tự hào hàng Việt Nam” tại 61 địa phương. Có 8.581 chợ truyền thống (61 chợ đầu mối) cùng gần 1,4 triệu cửa hàng tạp hóa đang duy trì hoạt động. Kênh bán lẻ truyền thống đã có những thay đổi mạnh mẽ (thanh toán điện tử, kết hợp cả bán hàng trực tuyến (online) với trực tiếp (offline)); tiếp cận xu hướng hiện đại từ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, kết nối phản ánh người tiêu dùng với nhà sản xuất.
Thương mại điện tử trở thành “đột phá khẩu”
Với 53% dân số tham gia mua bán trực tuyến, thị trường thương mại điện tử (TMĐT) Việt Nam năm 2020 tăng trưởng 18% (năm 2019 là 25%), đạt 11,8 tỷ USD. Năm 2021, tăng 10,2% so với năm 2020, đạt 13 tỷ USD(1). Lần đầu tiên, mua sắm hàng hóa qua TMĐT đã trở thành phương thức phân phối chủ yếu, phát huy hiệu quả, góp phần duy trì chuỗi cung ứng và chuỗi lưu thông. Cũng lần đầu tiên, “Gian hàng quốc gia Việt Nam” - nơi tập hợp các sản phẩm tiêu biểu của Việt Nam được tổ chức, xây dựng trên sàn TMĐT JD.com, do Việt Nam chủ trì triển khai qua phương thức TMĐT xuyên biên giới.
Xuất, nhập khẩu là điểm sáng
Thặng dư thương mại năm 2020 đạt 19,95 tỷ USD, cao hơn mức thặng dư năm 2019 (10,8 tỷ USD) và năm 2018 (6,5 tỷ USD); gấp hơn 10 lần năm 2017 và gần 13 lần so với mức thặng dư thương mại năm 2016. Năm 2021, dù chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 và bảo hộ mậu dịch gia tăng, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vẫn bứt phá, thiết lập “kỳ tích” mới với kim ngạch đạt 336,25 tỷ USD, tăng 19% so với năm 2020. Với tỷ lệ xuất, nhập khẩu/GDP năm 2021 đạt 184,7%, năm 2020 là 158,6% và năm 2016 là 136,7%, kinh tế Việt Nam có độ mở cao (đứng thứ 2 Đông Nam Á, thứ 3 châu Á, thứ 4 thế giới).
Kim ngạch xuất khẩu tăng cao ở những thị trường có hiệp định thương mại tự do (FTA) với Việt Nam, như Mỹ: 24,2%; Trung Quốc: 15%; Liên minh châu Âu (EU): 14%; Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN): 25,8%; Hàn Quốc: 15,8%; Ấn Độ: 21%; Niu Di-lân: 42,5% và Ô-xtrây-li-a: 3,1%. Việt Nam gia nhập nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế. Điều này càng trở nên có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh kinh tế thế giới tăng trưởng chậm do làn sóng COVID-19 lần thứ tư bùng phát làm “tê liệt” chuỗi cung ứng toàn cầu.
Kiểm soát nhập khẩu đã từng bước được cải thiện. Nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu tăng trưởng chậm lại. Nhập khẩu hàng hóa phục vụ sản xuất để xuất khẩu và hàng hóa thiết yếu luôn chiếm 89% - 94% kim ngạch nhập khẩu. Nhóm hàng không khuyến khích nhập khẩu chỉ chiếm 6% - 11%.
Thương mại biên giới sôi động
Thương mại biên giới Việt Nam - Lào, Việt Nam - Cam-pu-chia, Việt Nam - Trung Quốc thực sự là động lực góp phần vào việc phát triển quan hệ, hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực giữa Việt Nam và các nước. Hoạt động xuất, nhập khẩu biên mậu biên giới phía Bắc trở nên sôi động, được tiến hành chủ yếu theo các hình thức: chính ngạch, buôn bán qua biên giới, tạm nhập, tái xuất, quá cảnh, chuyển khẩu, kho ngoại quan, trao đổi hàng hóa giữa cư dân biên giới.
Sự phát triển của thương mại biên mậu làm cho thị trường miền núi, vùng cao, biên giới khởi sắc. Thương mại góp phần tạo thêm nhiều việc làm, thu nhập và sức mua của người dân nhờ đó cũng được nâng lên. Cơ cấu kinh tế - xã hội các tỉnh vùng cao biên giới từng bước dịch chuyển theo hướng tích cực, tạo sức hấp dẫn, thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, yếu tố không chắc chắn trong buôn bán tiểu ngạch khiến thương mại biên mậu có độ rủi ro cao, tác động mạnh tới các hợp đồng thương mại chính ngạch.
Bối cảnh mới và những vấn đề đặt ra
Hiện nay, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch và xung đột thương mại ngày càng gia tăng. Hội nhập kinh tế quốc tế đang làm thay đổi cách nghĩ, cách làm thương mại lâu nay. Thương mại số (bao gồm các giao dịch thương mại hàng hóa, dịch vụ được cung cấp trên môi trường số hoặc cung cấp theo hình thức truyền thống, nhưng được thực hiện với sự hỗ trợ của công nghệ số) đã và đang trở thành xu hướng chủ đạo.
Lĩnh vực phân phối và bán lẻ tại Việt Nam hiện vẫn còn nhiều tiềm năng, do quy mô dân số lớn (gần 100 triệu người), cơ cấu dân số trẻ (60% dân số ở độ tuổi 18 - 50); tầng lớp “trung lưu” đang phát triển mạnh, chi tiêu hộ gia đình tăng trung bình 10,5%/năm, trong khi tỷ lệ bao phủ của hệ thống bán lẻ hiện đại thấp hơn nhiều nước trong khu vực (chỉ đạt 25% tổng mức bán lẻ, trong khi ở Phi-líp-pin là 33%, Thái Lan: 34%, Ma-lai-xi-a: 60%, Xin-ga-po: 90%...). Thương mại nội địa chưa khai thác hết tiềm năng của khu vực thị trường mới nổi. Dung lượng của thị trường trong nước còn thấp, mới xấp xỉ 1/2 lần so với thị trường xuất khẩu và khoảng 1/4 so với thị trường xuất, nhập khẩu.
Sự xuất hiện của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong lĩnh vực thương mại đã tạo ra áp lực cho các chủ thể bán lẻ trong nước, vốn bị hạn chế về tiềm lực tài chính, kinh nghiệm và công nghệ,... Các doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc thỏa thuận để đưa hàng hóa vào bán tại các cơ sở phân phối vì mức chiết khấu. Hiệp hội Siêu thị Hà Nội ước tính các doanh nghiệp FDI hiện đang chiếm tới 50% thị phần (có thể con số này cao hơn trong thực tế).
Chuỗi cung ứng hàng hóa trong hoạt động thương mại gặp nhiều khó khăn. Việc hỗ trợ tiêu thụ nông sản đã mang lại những kết quả bước đầu. Tuy nhiên, câu chuyện liên kết 4 nhà (nhà nông, nhà khoa học, Nhà nước và nhà kinh doanh) vẫn chưa tạo được những đột phá và chuyển biến mạnh mẽ, khiến nông sản Việt Nam nhiều khi vẫn rơi vào tình trạng phải “giải cứu”.
Thời gian qua, tuy kết cấu hạ tầng phục vụ logistics ở nước ta được quan tâm đầu tư, nâng cấp nhưng còn thiếu tính kết nối và chưa đáp ứng được yêu cầu. Chi phí logistics vẫn ở mức cao, chiếm hơn 20% tổng GDP quốc gia, cao hơn nhiều so với chi phí logistics trung bình trên thế giới (11% - 12% GDP).
Kết quả sơ bộ từ Khảo sát mức sống dân cư năm 2021 của Tổng cục Thống kê cho thấy, thu nhập bình quân/tháng trong năm 2021 theo giá hiện hành ước đạt khoảng 4,2 triệu đồng, giảm 73.000 đồng so với năm 2020; tỷ lệ nghèo tiếp cận đa chiều khoảng 4,4%, giảm 0,4 điểm phần trăm so với năm 2020 (thu nhập bình quân đầu người năm 2020 giảm khoảng 2%, tương đương giảm 71.500 đồng/tháng so với năm 2019). Sức mua giảm đã và sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng của tổng mức bán lẻ hàng hóa (tốc độ tăng tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2017 là 10,9%; năm 2018: 11,7%; năm 2019: 11,8%; năm 2020: 2,6%; năm 2021: -3,8%. Song, nếu loại trừ yếu tố giá thì các con số tương ứng với các năm là 9,3%; 8,4%; 9,5%; -3%; -6,2%).
Nhìn toàn cảnh, thị trường nông thôn, đặc biệt là khu vực miền núi vẫn là một thị trường có sức mua bình quân đầu người khá thấp(2), mang tính phân tán. Quy luật lợi nhuận sẽ thúc đẩy việc tập trung mạng lưới ở các nơi giao lưu thuận tiện, kết quả là thị trường nông thôn đang có khuynh hướng bị khu vực hóa với một số vùng hết sức khó khăn, có nơi thậm chí chưa có những tiền đề cần thiết cho kinh tế hàng hóa.
Hạ tầng thương mại, như chợ đầu mối, kho hàng hóa (bao gồm cả kho lạnh)... cũng chưa theo kịp nhu cầu. Việc kêu gọi và thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thương mại còn nhiều hạn chế. Chính sách ưu đãi đầu tư (thuế, đất đai, tín dụng...) để phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại nói chung và ngành phân phối bán lẻ nói riêng còn nhiều bất cập. Các chợ truyền thống và cửa hàng tạp hóa với nguồn lực hạn chế, khả năng tiếp cận công nghệ thấp, thiếu cả công cụ và kinh nghiệm, rất dễ bị “chèn ép”.
Nhìn tổng quát, còn quá ít những doanh nghiệp và hệ thống phân phối đủ mạnh, có khả năng tài chính, mạng lưới kinh doanh, nhân lực, công nghệ quản lý và điều hành phù hợp với xu thế hiện đại hóa và chuyên nghiệp hóa. Sự phát triển của hệ thống phân phối trong nước vẫn chủ yếu theo bề rộng, thiếu sự liên kết, hợp tác, ổn định...
Tại Việt Nam, TMĐT đang dần trở thành hình thức kinh doanh phổ cập. Tuy nhiên, những dịch vụ và tiện ích của TMĐT Việt Nam mới chỉ đáp ứng nhu cầu mua sắm tối thiểu, vẫn còn một khoảng cách lớn so với nhiều quốc gia. Bên cạnh đó, tỷ lệ hàng Việt Nam trên các sàn TMĐT vẫn thấp; chưa đến 20% “tốp” mặt hàng được tìm mua trên sàn trong mùa dịch là hàng Việt Nam. Việc “lép vế” trên kênh mua sắm trực tuyến, khiến các doanh nghiệp trong nước có nguy cơ đánh mất cơ hội phát triển.
Chúng ta chưa có chiến lược xuất khẩu bền vững cho từng thị trường. Tăng trưởng xuất khẩu nhanh nhưng chưa vững chắc, rất dễ bị tổn thương bởi các cú sốc từ bên ngoài. Tính gia công của sản xuất, tính đại lý của thương mại ở nước ta còn rất lớn. Lợi thế cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam chủ yếu vẫn dựa trên giá cả, chứ chưa dựa trên giá trị. Xuất khẩu nông sản theo hình thức trao đổi thương mại biên giới (tiểu ngạch) vẫn chiếm tỷ trọng cao.
Xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào khu vực FDI. Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI (kể cả dầu thô) chiếm tới 73,6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong khi đó, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của khối doanh nghiệp trong nước thấp hơn mức tăng trưởng xuất khẩu chung của cả nước (19%) và chỉ chiếm 26,4% kim ngạch xuất khẩu (cùng kỳ năm 2020 chiếm 27,7%).
Quá trình chuyển dịch cơ cấu thị trường nhìn chung diễn ra tương đối tốt trong những năm gần đây, tuy nhiên, sự chuyển dịch này chưa được định hướng trên một tầm nhìn dài hạn (chủ yếu mới chỉ là sự thích ứng với thay đổi của tình hình). Chính vì vậy, nó đã nhanh chóng bộc lộ những điểm yếu, khó có thể phát triển bền vững và duy trì tốc độ tăng trưởng cao cũng như khả năng “len chân” vào các thị trường ngách.
Với tỷ trọng nhập khẩu cao từ thị trường các nước châu Á (nhập siêu chủ yếu từ các thị trường này) và xuất siêu sang các thị trường có công nghệ nguồn - Việt Nam đang bị “neo chặt” ở khâu có giá trị gia tăng thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc phát triển theo mô hình “rút ngắn”, “đi tắt đón đầu”, nguy cơ tụt hậu rất lớn.
Một số mặt hàng nông sản chưa đáp ứng được những yêu cầu của thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản,... do sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún, hàm lượng công nghệ thấp. Bên cạnh đó, các khâu sản xuất, chế biến, tiêu thụ, lưu thông chưa có sự gắn kết chặt chẽ, khiến nguy cơ đứt gãy rất dễ xảy ra.
Nhập khẩu đã có chuyển biến theo hướng ưu tiên nhập khẩu máy móc, thiết bị, vật tư đầu vào. Tuy nhiên, trong cơ cấu nhập khẩu, máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng còn chiếm tỷ trọng thấp (41%), phần lớn vẫn là công nghệ trung gian, công nghệ trung bình nên chưa tạo được động lực mạnh mẽ làm thay đổi cơ cấu xuất khẩu. Giá nhập khẩu của một số mặt hàng tăng khá cao, tác động tiêu cực đến cán cân tổng thể, thị trường ngoại hối, tỷ giá thương mại, chưa kể thị trường xuất, nhập khẩu vẫn còn tình trạng “bỏ trứng vào một giỏ”...
Xúc tiến thương mại được gia tăng, khởi sắc, tuy nhiên, vẫn chưa thực sự gắn kết với quá trình sản xuất. Mối quan hệ, tương tác giữa Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) với các hiệp hội, doanh nghiệp, các liên minh hợp tác xã đã có những chuyển biến nhưng chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra.
Phương hướng và một số giải pháp phát triển
Giai đoạn 2022 - 2025, vấn đề đặt ra cho Việt Nam là sản xuất và chế tạo những sản phẩm gì để thỏa mãn nhu cầu của thị trường nội địa và tham gia thị trường thế giới? Đối với những quốc gia có quy mô dân số trung bình như Việt Nam, việc tìm ra điểm cân bằng rất quan trọng. Cần nhanh chóng cấu trúc lại thị trường, trước hết là mối quan hệ giữa thị trường nội địa và thị trường quốc tế; đồng thời, cấu trúc lại nền kinh tế.
Trong 4 phân ngành (nghề) của dịch vụ, phân phối, bán lẻ là phân ngành phát triển mạnh mẽ nhất. Trong một tương lai gần, phải “đón đầu” xu hướng phát triển của dịch vụ bán buôn, từng bước hình thành các trung tâm bán buôn hiện đại. Khi ngày càng có nhiều thương hiệu Việt Nam, cần có chính sách khuyến khích “bên nhượng” và hỗ trợ “bên nhận” để phân ngành này “nở rộ”, hướng tới hàng triệu doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh. Cần hướng các nhà phân phối, đặc biệt là doanh nghiệp FDI, tập trung đầu tư chủ yếu vào phương thức cung cấp dịch vụ phân phối là hiện diện thương mại.
Gắn lưu thông với sản xuất, chế biến và hình thành nên các chuỗi cung ứng hàng hóa. Phát triển các chuỗi cung ứng là con đường hợp thời nhất để có ngành thương mại hiện đại trong một thị trường hiện đại.
Về loại hình kinh doanh, cần hướng vào phát triển một lực lượng đông đảo các cửa hàng tiện lợi, trở thành “người nội trợ” cho mọi nhà. Từng bước liên kết lại thành chuỗi; trong đó, doanh nghiệp chỉ huy chuỗi (công ty mẹ) sử dụng công nghệ “tracking”, theo dõi đơn hàng thông qua việc cung cấp các dãy số nhất định, được các nhà vận chuyển gửi cho khách khi xác định đơn hàng và trung tâm logistics (logistics nội bộ) bảo đảm “trọn gói” việc cung cấp hàng hóa theo đặt hàng (order) cho toàn bộ các cửa hàng trong chuỗi.
Là khu vực rộng lớn, thị trường nông thôn là địa bàn giàu “tiềm năng” với hàng Việt Nam, thương nhân Việt Nam, cung cách kinh doanh Việt Nam,... Vì thế, tư tưởng cơ bản và nhất quán là sự vận động thông suốt của hàng hóa từ sản xuất đến tiêu dùng được thực hiện theo nhiều hình thức tổ chức với quy mô và cấu trúc khác nhau. Đây được xem là thị trường cơ sở, là nơi bán lẻ, giao dịch trực tiếp chiếm ưu thế.
Trong bối cảnh hiện nay, khi sản xuất ở khu vực này chủ yếu với quy mô nhỏ gắn với kinh tế hộ gia đình thì lưu thông phải phát triển mạnh, mới mở rộng quy mô sản xuất và thực hiện chuyên môn hóa. Vì thế, cần có các chủ thể trung gian cần thiết hỗ trợ cho chủ thể trung tâm của thị trường nông thôn là hộ gia đình. Ở đây, cần đặc biệt coi trọng vai trò cung ứng dịch vụ của hợp tác xã (HTX), vai trò các HTX dịch vụ tự nguyện. Như vậy, việc xây dựng và phát triển các cụm kinh tế - thương mại - dịch vụ gồm nhiều chủ thể kinh doanh với các hình thức sở hữu đa dạng được xem là “mắt xích” hết sức quan trọng trong việc tổ chức lại thị trường nông thôn.
Cần tiếp tục củng cố, phát triển chợ truyền thống trên thị trường nông thôn, trọng tâm là chợ dân sinh (hạng III, bán lẻ). Đồng thời, lựa chọn kỹ các điều kiện để phát triển một số chợ đầu mối bán buôn nông sản gần các trung tâm tiêu dùng lớn. Trong số các chợ đầu mối này, lại chọn ra một số chợ có tiềm năng và tiền đề để phát triển lên một trình độ cao hơn: chợ đấu giá, sàn giao dịch hàng hóa...
Đến nay, nước ta đã có quan hệ thương mại với 224 đối tác; đã, đang đàm phán, ký kết và thực thi 17 FTA. Việt Nam trở thành một trong những nước đi đầu khu vực trong việc hình thành các khuôn khổ hợp tác kinh tế đa phương. Với mục tiêu đến năm 2030 thuộc nhóm 15 quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới và xếp thứ 2 trong ASEAN về quy mô thị trường bán lẻ và TMĐT, đòi hỏi sự nỗ lực rất cao trong thời gian tới. Để đạt được kết quả này, cần tập trung vào các giải pháp sau:
Một là, cải cách thể chế, môi trường kinh doanh.
Luật Doanh nghiệp cần có quy định để kịp thời điều chỉnh các hành vi kinh doanh mới của nền kinh tế số; vừa để không xảy ra “khoảng trống pháp lý”, vừa tạo thuận lợi cho hành vi kinh doanh mới được thực hiện và phát triển. Việt Nam cần tạo ra những đột phá mạnh mẽ về cải cách điều kiện kinh doanh (bằng cách thay đổi cách thức quản lý nhà nước, chuyển mạnh sang hậu kiểm).
Luật Thương mại và các cơ chế, chính sách quản lý cần bổ sung và hoàn thiện nhằm tạo điều kiện thực hiện thuận lợi hóa thương mại. Luật Thuế xuất, nhập khẩu cũng cần được sửa đổi thống nhất, đồng bộ với quy định của Hiến pháp và các luật hiện hành; tương thích với các cam kết và điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Việc xây dựng Luật Công nghiệp hỗ trợ để tận dụng được làn sóng chuyển dịch vốn FDI hiện tại trở thành vấn đề thời sự.
Cơ chế điều hành thị trường cần phải có những “đột phá” mạnh mẽ để nhanh chóng, linh hoạt xử lý nhanh những biến động. Thực tế cho thấy, tổ chức và xử lý thông tin thị trường còn nhiều bất cập. Cần hoàn thiện cơ chế phối hợp thông tin thị trường giữa các cơ quan quản lý với các hiệp hội doanh nghiệp, ngành hàng. Cơ chế thu thập, xử lý thông tin cũng cần đổi mới theo hướng đi sâu vào các ngành hàng.
Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (Bộ Công Thương) chỉ đạo, hướng dẫn đào tạo kỹ năng và vận hành hoạt động kinh doanh trực tuyến, hỗ trợ vận chuyển; thanh toán trực tuyến; hỗ trợ và ưu tiên thương nhân kinh doanh nông sản tham gia các chương trình mua sắm trực tuyến, gian hàng Việt trực tuyến quốc gia;... phối hợp với Cục Xúc tiến thương mại, các sở công thương địa phương đẩy mạnh quảng bá sản phẩm nông sản trên các kênh TMĐT. Hỗ trợ các địa phương thúc đẩy tiêu thụ lượng nông sản lớn (đã, đang và sẽ vào vụ thu hoạch) trên các sàn giao dịch TMĐT.
Các cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” và “Hàng Việt Nam chinh phục người tiêu dùng Việt Nam” cần có thêm những xung lực mới bằng việc đẩy nhanh các chương trình kích cầu tiêu dùng nội địa thông qua một số hoạt động, như tổ chức “Tháng khuyến mại tập trung quốc gia - Vietnam Grand Sale”; xây dựng các điểm bán hàng Việt Nam với tên gọi “Tự hào hàng Việt Nam”.
Hai là, tổ chức lại chuỗi cung ứng và thị trường.
Để bảo đảm liên kết địa phương, liên kết vùng, cần có góc nhìn bao quát hơn về sứ mệnh của vùng, không phải theo góc độ đơn lẻ từng tỉnh. Để phát triển liên kết dọc trong chuỗi cung ứng, cần sự hỗ trợ của các bộ, ngành (công thương; nông nghiệp và phát triển nông thôn, khoa học và công nghệ...), sự tham gia của các hiệp hội và các doanh nghiệp; trong đó, doanh nghiệp phải là chất xúc tác, chủ động kết nối.
Trên địa bàn nông thôn, lấy các trục giao thông liên thôn, liên xã có điều kiện và tiềm năng phát triển thương mại, nhất là đối với các thôn, xã ở xa khu vực thị trấn huyện lỵ để hình thành các trục thương mại đáp ứng nhu cầu tiêu thụ hàng hóa nông sản và nhu cầu mua hàng hóa tiêu dùng của dân cư. Trên các tuyến trục này, có thể kết hợp giữa phát triển chợ và dãy cửa hàng, hoặc phát triển các điểm thu mua, bán lẻ hàng hóa. Song song với sự phát triển các cụm công nghiệp, cần tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh công nghiệp và dịch vụ được tự do di chuyển đến các thị trấn, thị tứ, nơi gần đường giao thông để xây dựng cơ sở kinh doanh. Việc làm này vừa đáp ứng nhu cầu trước mắt, vừa tạo ra những điều kiện để sớm hình thành các tụ điểm công - thương nghiệp - dịch vụ ở nông thôn.
Bộ Công Thương cùng các bộ, ngành liên quan và các địa phương tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách liên quan tới phát triển hệ thống thương mại, đặc biệt là các loại hình cần tập trung phát triển trong thời gian tới, như hạ tầng logistics, chợ đầu mối. Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng và ban hành tiêu chí xếp hạng các nhà bán lẻ FDI trong việc tuân thủ pháp luật Việt Nam, coi đây là căn cứ xem xét việc cấp phép cho nhà phân phối nước ngoài được mở mới cơ sở bán lẻ thứ 2 (không coi đây là tiêu chí về kiểm tra nhu cầu kinh tế - ENT).
Xây dựng kế hoạch tổng thể (tầm quốc gia) để phối hợp tốt hơn trong việc kiểm tra, kiểm soát hàng hóa xuất, nhập khẩu qua biên giới. Xây dựng quy chế về quản lý kiểm dịch, vệ sinh, an toàn thực phẩm đối với hàng hóa xuất khẩu cùng hệ thống giám sát, kiểm tra và công nhận từ khâu sản xuất để bảo đảm quy mô, chất lượng và nâng cao uy tín hàng hóa.
Ba là, triển khai có hiệu quả các FTA mà Việt Nam đã ký kết.
Xúc tiến xây dựng chiến lược mới về# hội nhập kinh tế quốc tế và xem xét tiến hành đàm phán với Mỹ về FTA song phương. Bên cạnh đó, cần có bộ máy chuyên môn với chức năng nhiệm vụ rõ ràng, thực thi việc theo dõi, giám sát, đánh giá hiệu lực của pháp luật và thể chế, kiểm soát độ mở của nền kinh tế.
Bốn là, gia tăng xuất khẩu.
Bộ Công Thương cùng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần tập trung: 1- Xây dựng các đề án xuất khẩu nông sản sang từng thị trường có tiềm năng; 2- Đẩy nhanh việc hoàn tất thủ tục bổ sung một số mặt hàng trái cây, nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc; tăng cường trao đổi, đàm phán sớm ký kết Nghị định thư về kiểm dịch thực vật đối với các loại nông sản của Việt Nam để giảm bớt thời gian, thủ tục kiểm tra, kiểm soát tại các cửa khẩu; thống nhất quy trình xét nghiệm, khử khuẩn đối với hoa quả, nông sản trước khi xuất khẩu; 3- Xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, rào cản thương mại đối với sản phẩm nông, thủy sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường quốc tế; đáp ứng thay đổi yêu cầu kỹ thuật của thị trường nhập khẩu; 4- Phối hợp với các địa phương để điều chỉnh chiến lược ngành hàng, lựa chọn các mặt hàng có thế mạnh của địa phương để đưa vào kế hoạch phát triển thương mại. Phối hợp cùng các đơn vị chức năng thuộc Bộ Giao thông Vận tải xử lý tình trạng thiếu container rỗng, container lạnh và có giải pháp giảm cước vận tải phục vụ xuất khẩu và nhập khẩu. Xem xét xây dựng liên minh hiệp hội của các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản, có sự tham gia của các doanh nghiệp logistics để giảm chi phí trung gian. Phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để tiếp tục đẩy mạnh các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, kinh doanh, xuất khẩu các sản phẩm nông, thủy sản tiếp cận vốn tín dụng.
Năm là, đổi mới quản trị chiến lược phát triển của doanh nghiệp.
Cần chú trọng những vấn đề trong đổi mới quản trị chiến lược của doanh nghiệp, như hiệu quả; tinh thần thượng tôn pháp luật; quy chuẩn đạo đức kinh doanh. Mô hình chiến lược được doanh nghiệp chọn nên theo dạng mở, xác lập tầm nhìn trong thời gian 2 năm - 3 năm. Bài toán lợi nhuận không còn là ưu tiên hàng đầu, thay vào đó là khả năng thích ứng, chống chịu với những cú sốc của thị trường. Chuyển đổi số là tất yếu, ưu tiên chiến lược cần thực hiện, song không phải là mục tiêu mà là phương pháp, công cụ để doanh nghiệp tạo lập sức cạnh tranh, chống chọi với những biến động của thị trường.
Trong một nền sản xuất nông nghiệp còn mang tính nhỏ lẻ như Việt Nam, vai trò của thương lái cực kỳ quan trọng, cần xem xét tổ chức các câu lạc bộ thương lái để hoạt động thu mua nông sản có bài bản, có sự chia sẻ và liên kết, để nông dân, doanh nghiệp và thương lái cùng cộng đồng trách nhiệm./.
(2) Theo báo cáo của Ủy ban Dân tộc, thu nhập thực tế bình quân một người dân tộc thiểu số khoảng 1,1 triệu đồng đến 1,2 triệu đồng/tháng, tương đương với 13 triệu đồng đến 14 triệu đồng/năm. Tính chung cả nước, tiêu dùng cuối cùng năm 2020 chỉ tăng 1,06%, thấp hơn rất nhiều so với mức tăng 7,23% của năm 2019