Nhận dạng nguồn gốc, loại hình và xử lý tài sản không chứng minh được nguồn gốc*
23:57 23/07/2021
Nhận dạng nguồn gốc và loại hình tài sản
Kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ có chức vụ, quyền hạn là giải pháp quan trọng để ngăn ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, chống lại sự “tha hóa quyền lực”. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm soát tài sản, thu nhập của đội ngũ cán bộ, góp phần ngăn chặn, phòng ngừa hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn vì động cơ vụ lợi. Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30-10-2016, của Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đầy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến“, “tự chuyển hóa“ trong nội bộ“, chỉ rõ: “Thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản, thu nhập theo quy định; xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải trình và giám sát việc tăng, giảm tài sản của cán bộ, đảng viên. Cơ quan đề xuất đề bạt, bổ nhiệm cán bộ phải tiến hành thẩm định, xác minh, đánh giá tính trung thực của việc kê khai tài sản, thu nhập và công khai theo quy định”. Khoản 1, Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác”. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, trong khi tài sản, thu nhập của người dân, của cán bộ, công chức, viên chức được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, chưa được kiểm soát đầy đủ bằng các quy định của pháp luật thì việc xác định nguồn gốc hợp pháp của tài sản, thu nhập là vấn đề rất phức tạp.
Trên thế giới có nhiều cách tiếp cận để kiểm soát nguồn gốc của tài sản, thu nhập(1). Cách tiếp cận chặt chẽ nhất là yêu cầu thông tin chính xác về thu nhập (tiền lương, các khoản phí, lợi ích, cổ tức, lợi nhuận thu được từ việc bán hoặc cho thuê tài sản, tiền bồi thường bảo hiểm, trúng xổ số, thừa kế, quà tặng bằng tiền,...) và xác định nguồn gốc chính xác của những thu nhập đó. Một số nơi yêu cầu phải kê khai rõ ràng thông tin về những lợi nhuận mà công chức nhận được từ các bên thứ ba và những lợi nhuận mà không phải lúc nào cũng có thể được coi là thu nhập, nếu hiểu một cách chặt chẽ. Ở nhiều quốc gia, công chức không chỉ phải kê khai về thu nhập mà còn phải kê khai về tài sản. Đối tượng của việc kê khai gồm nhiều loại tài sản: bất động sản, các loại động sản (xe cộ, tàu thuyền, đồ cổ có giá trị và tác phẩm nghệ thuật, động vật), thậm chí cả vật liệu xây dựng..., cổ phần và cổ phiếu, các khoản vay gia hạn, các khoản tiết kiệm dưới dạng tiền gửi trong ngân hàng và tiền mặt.
Ở Việt Nam, theo Báo cáo số 1256/BC-UBTP14, ngày 16-5-2018, của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Thẩm tra dự án Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi), đã có nhiều phương án được đưa ra gắn liền với việc xác định nguồn gốc và loại hình của tài sản. Phương án thứ nhất cho rằng, đối với tài sản, thu nhập mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được một cách hợp lý về nguồn gốc, nhưng Nhà nước cũng chưa chứng minh được tài sản này có nguồn gốc bất hợp pháp thì trước mắt, có thể coi đây là các khoản thu nhập phát sinh mà người kê khai chưa nộp thuế và buộc họ phải nộp thuế là phù hợp trong điều kiện hiện nay. Phương án thứ hai cho rằng, mối quan hệ giữa Nhà nước với cán bộ, công chức, viên chức trong kiểm soát, kê khai tài sản, thu nhập là mối quan hệ hành chính; cán bộ, công chức, viên chức có nghĩa vụ phải nghiêm chỉnh chấp hành Luật Phòng, chống tham nhũng, trong đó có nghĩa vụ trung thực, minh bạch trong kê khai tài sản, thu nhập. Vì vậy, đối với tài sản, thu nhập thực tế lớn hơn tài sản, thu nhập đã kê khai hoặc tài sản, thu nhập tăng thêm mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được hợp lý về nguồn gốc thì Nhà nước sẽ xử phạt hành chính đối với hành vi kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, không minh bạch. Vụ việc chủ tiệm vàng trong vụ việc “đổi 100 USD” tại thành phố Cần Thơ bị tịch thu 20 viên kim cương (hột xoàn) và 19.910 viên đá nhân tạo do không chứng minh được nguồn gốc cho thấy còn rất nhiều điều phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện đối với các quy định về tịch thu tài sản, rất cần tách bạch giữa tài sản của người có chức vụ, quyền hạn và tài sản của người dân, cũng như nghĩa vụ kê khai và chứng minh nguồn gốc tài sản của người có chức vụ, quyền hạn.
Nhận dạng hoạt động tẩu tán tài sản, rửa tiền đối với tài sản không chứng minh được nguồn gốc
Tẩu tán tài sản hay rửa tiền đều là các hành vi vi phạm pháp luật, nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc nhằm chuyển đổi tài sản hay lợi nhuận có được từ việc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi tẩu tán tài sản, rửa tiền gây thiệt hại lớn đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề thu hồi tài sản thất thoát rất khó khăn, do các đối tượng đã thực hiện nhiều thủ đoạn nhằm che giấu, tẩu tán tài sản có được bởi hành vi vi phạm pháp luật. Việc thu hồi tài sản, phòng, chống rửa tiền có tính phức tạp cao, liên quan đến hoạt động của nhiều cơ quan khác nhau như Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thanh tra Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước... và các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp và pháp lý(2). Bên cạnh đó, công tác chứng minh, xử lý hành vi tẩu tán tài sản, rửa tiền vẫn là thách thức lớn với các cơ quan tiến hành tố tụng.
Hành vi tẩu tán tài sản, rửa tiền diễn ra dưới nhiều dạng thức như xác lập giao dịch một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác, cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản chất thật sự hoặc vị trí của tài sản, quá trình dịch chuyển tài sản hoặc quyền sở hữu đối với tài sản có được do hành vi vi phạm pháp luật…, các giao dịch trốn thuế, mua bán trái phép chất ma túy, vũ khí, tài trợ khủng bố, mại dâm, bán hàng giả, hàng cấm, tham nhũng, nhận hối lộ, các giao dịch ở “chợ đen” hoặc hoạt động kinh tế ngầm nhằm trốn tránh các biện pháp trừng phạt kinh tế,… với phương thức, thủ đoạn đa dạng như: chuyển tiền bẩn từ nước ngoài về để hợp pháp hóa; đầu tư ra nước ngoài để che giấu tài sản bẩn, chuyển và giấu tài sản bẩn ở nước ngoài; nhận tiền hối lộ ở nước ngoài và dùng tiền đó mua bất động sản ở nước ngoài, chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản ở nước ngoài; thành lập công ty ở nước ngoài song song với công ty trong nước...; sử dụng tiền có được từ các hoạt động vi phạm pháp luật để mua bất động sản, tài sản, chuyển cho người thân, đầu tư vào các dự án, lập doanh nghiệp, góp vốn, mua cổ phần tại doanh nghiệp khác, chia, tách doanh nghiệp, thành lập các công ty con, sau đó chuyển tiền từ công ty mẹ sang công ty con, chuyển vốn từ công ty này sang công ty khác, cho các cá nhân, đầu tư chứng khoán… Nhiều cá nhân, tổ chức có thể có liên quan tới các hoạt động này như luật sư, công chứng, kế toán, kiểm toán, các tổ chức phi lợi nhuận… Báo cáo tóm tắt "Đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền và tài trợ khủng bố 2012 - 2017” của Việt Nam năm 2018 đã xác định các lĩnh vực có nguy cơ rủi ro cao về rửa tiền là ngân hàng, bất động sản, hệ thống chuyển tiền ngầm.
Những nỗ lực của Việt Nam trong công tác phòng, chống rửa tiền đã đạt nhiều kết quả tích cực. Thống kê kết quả sau 5 năm thực hiện Luật Phòng, chống rửa tiền (2013 - 2018) cho thấy, Luật này đã tạo hành lang pháp lý đầy đủ và toàn diện cho việc triển khai đồng bộ và có hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Tính từ tháng 1-2013 đến tháng 1-2018, Cục Phòng, chống rửa tiền (Ngân hàng Nhà nước) đã tiếp nhận gần 6.000 báo cáo giao dịch đáng ngờ, tăng gấp 3 lần so với giai đoạn trước khi có Luật (2005 - 2012). Hiện nay, mỗi ngày, cơ sở dữ liệu của Cục phòng, chống rửa tiền tiếp nhận khoảng gần 200 nghìn giao dịch tiền mặt có giá trị lớn và giao dịch chuyển tiền điện tử ra/vào Việt Nam. Tính đến tháng 1-2018, hệ thống đang lưu trữ khoảng 250 triệu giao dịch, liên quan đến khoảng 11 triệu khách hàng(3).
Phòng, chống rửa tiền là vấn đề được đặt ra từ lâu, nhưng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay, đây vẫn là lĩnh vực vẫn còn có những kết quả hạn chế. Trong những năm qua, các cơ quan tiến hành tố tụng đã điều tra, truy tố, xét xử... nhiều vụ án kinh tế, nhiều băng nhóm tội phạm có tổ chức, buôn lậu, mua bán trái phép chất ma tuý,... nhưng chưa xử lý được hành vi rửa tiền.
Ngày 24-5-2019, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP, hướng dẫn áp dụng Điều 324 của Bộ luật Hình sự về tội rửa tiền. Nghị quyết quy định nhiều tội phạm là tội phạm nguồn của tội rửa tiền như: Tội giết người; tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; tội mua bán người; tội mua bán người dưới 16 tuổi; tội cướp tài sản; tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; tội trộm cắp tài sản; tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; tội buôn lậu; tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới; tội sản xuất, buôn bán hàng cấm; tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm; tội sản xuất, buôn bán hàng giả; tội trốn thuế; tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả; tội thao túng thị trường chứng khoán; tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan; tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã; tội gây ô nhiễm môi trường; tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm; tội tàng trữ trái phép chất ma túy; tội vận chuyển trái phép chất ma túy; tội mua bán trái phép chất ma túy; tội chiếm đoạt chất ma túy; tội khủng bố; tội tài trợ khủng bố; tội bắt cóc con tin; tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; tội đánh bạc; tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc; tội tham ô tài sản; tội nhận hối lộ; tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản… Nghị quyết cũng quy định về một số dạng thức của hành vi rửa tiền liên quan đến việc định tội.
Trong thời gian gần đây, các cơ quan có chức năng điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền đã có sự phối hợp mạnh mẽ hơn trong phòng, chống rửa tiền thông qua việc ban hành Quy chế phối hợp số 02/2019/QCPH/BCA-VKSNDTC-TANDTC (Quy chế số 02), ngày 10-10-2019, giữa Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, “Về việc trao đổi thông tin phục vụ điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền”. Ví dụ, Bộ Công an có trách nhiệm tiến hành điều tra, xác minh các dấu hiệu của tội phạm rửa tiền trong quá trình điều tra tội phạm nguồn. Trước khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội danh rửa tiền cần trao đổi với Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp để áp dụng thống nhất, đúng quy định của pháp luật...; Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng thường xuyên cập nhật, bổ sung các dấu hiệu của tội rửa tiền gắn với từng loại tội phạm nguồn, để kịp thời đề ra yêu cầu điều tra, thu thập chứng cứ đối với tội phạm này...; Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm ban hành nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng thống nhất quy định của pháp luật về tội phạm rửa tiền trong xét xử; chỉ đạo, hướng dẫn, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của tòa án các cấp trong công tác xét xử các vụ án về tội rửa tiền… Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu (Bộ Công an), Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án kinh tế (Viện Kiểm sát nhân dân tối cao), Vụ Giám đốc kiểm tra (Tòa án nhân dân tối cao) là đơn vị đầu mối của các cơ quan phối hợp.
Số tiền thu hồi được từ các vụ án còn rất thấp, đáng chú ý có một số vụ án thậm chí còn không có khả năng thu hồi tài sản. Theo báo cáo trong cuộc họp Ủy ban Tư pháp của Quốc hội vào tháng 9-2018, có 6.500 tỷ đồng trong vụ án Phạm Công Danh, hơn 13.700 tỷ đồng trong vụ án Huỳnh Thị Huyền Như và hơn 2.500 tỷ đồng trong vụ án Phạm Thị Bích Lương liên quan đến Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank)… đều rất khó để thu hồi tài sản(4).
Theo Báo cáo số 330/BC-CP, ngày 22-9-2016, của Chính phủ, “Tổng kết 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng", trong 10 năm thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng, số tiền đã thu hồi được cho Nhà nước chỉ vẻn vẹn 4.676,6 tỷ đồng trên tổng số thiệt hại do các vụ án, vụ việc tham nhũng đã gây ra được phát hiện là 59.750 tỷ đồng, tức chỉ xấp xỉ 8%. Những năm gần đây, tỷ lệ thu hồi tài sản có tăng nhưng vẫn còn thấp hơn nhiều so với số tài sản bị chiếm đoạt. Tài sản tham nhũng trong một số vụ án bị tẩu tán, không kiểm soát, truy tìm được hoặc đã được các đối tượng phạm tội chuyển hóa dưới nhiều cách thức khác nhau như chuyển quyền sở hữu cho người thân; thông qua hoạt động rửa tiền, tẩu tán tài sản ra nước ngoài... Đối tượng phải thi hành án trong các vụ án tham nhũng, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế chủ yếu phải chấp hành hình phạt tù, có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản đối với một số tội danh. Đối với các vụ án này, trong khi phần tài sản dân sự có thể có giá trị lớn, thậm chí rất lớn nhưng tài sản để bảo đảm thi hành án lại có giá trị rất nhỏ, không đủ để thi hành nghĩa vụ theo bản án tòa án đã tuyên.
Một số khuyến nghị về việc nhận dạng nguồn gốc, loại hình tài sản và xử lý tài sản không chứng minh được nguồn gốc
Nhận dạng nguồn gốc, loại hình tài sản và xử lý tài sản không chứng minh được nguồn gốc là một công việc rất phức tạp, đòi hỏi phải có sự nỗ lực lâu dài, sự phối hợp của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Trước mắt, cần quan tâm thực hiện các giải pháp sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp và thu hồi tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp
Trong những năm gần đây, số vụ án kinh tế, tham nhũng, chức vụ bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có chiều hướng gia tăng, với giá trị tài sản tham nhũng, thất thoát ngày càng lớn. Về cơ bản, công tác thu hồi tài sản thất thoát từ những vụ án này đã có những chuyển biến tích cực. Các cơ quan chức năng đã kịp thời xác minh, áp dụng các biện pháp thu giữ, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản… nhằm thu hồi triệt để tài sản cho Nhà nước, các tổ chức và cá nhân đã bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án. Tuy nhiên, khối lượng tài sản phải thu hồi còn rất lớn so với số đã thu hồi trên thực tế; công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án tham nhũng, kinh tế, chức vụ vẫn rất khó khăn do thủ đoạn tinh vi của các đối tượng trong vụ án. Các quy định về tương trợ tư pháp của Việt Nam còn một số điểm bất cập. Thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân(5) cho thấy, pháp luật Việt Nam chưa có các quy định cụ thể về: (i) Trình tự, thủ tục ủy thác tư pháp ra nước ngoài và tiếp nhận, xử lý yêu cầu ủy thác tư pháp của nước ngoài còn chưa cụ thể, chi tiết đến mức có thể áp dụng trực tiếp để thực hiện, nhưng Luật Tương trợ tư pháp chưa cho phép ban hành văn bản hướng dẫn thi hành; (ii) Quy trình xử lý yêu cầu ủy thác tư pháp tại Việt Nam và ở nước ngoài còn qua nhiều khâu trung gian nên mất nhiều thời gian thực hiện và chờ đợi kết quả thực hiện; (iii) Công tác phối hợp về quản lý nhà nước giữa các cơ quan có liên quan chưa được quy định trong Luật Tương trợ tư pháp; (iv) Kinh phí thực hiện công tác ủy thác tư pháp chưa được cấp cho các cơ quan thực hiện.
Vì thế, cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý về tương trợ tư pháp và về thu hồi tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp. Trong thời gian tới, pháp luật Việt Nam cần quy định đầy đủ và cụ thể các vấn đề như: Cơ chế xác minh, truy tìm, điều tra, kê biên, phong tỏa, tịch thu tài sản do phạm tội mà có không phụ thuộc vào kết tội hình sự; trình tự, thủ tục xem xét, tiếp nhận giải quyết yêu cầu tương trợ tư pháp của nước ngoài đề nghị truy tìm, kê biên, phong tỏa, tịch thu và trả lại tài sản do phạm tội mà có; xác định trách nhiệm phối hợp và nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các bộ, ngành liên quan trong giải quyết các yêu cầu, đề nghị của nước ngoài liên quan đến thu hồi tài sản do phạm tội mà có... Trước mắt một số điều khoản trong các luật sau cần được quan tâm hoàn thiện:
- Luật Tương trợ tư pháp: nghiên cứu, sửa đổi Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 theo một trong hai cách: cách thứ nhất là hoàn thiện các điều khoản về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự cần được quy định đầy đủ và cụ thể hơn về nội dung tương trợ thu hồi tài sản; về trình tự, thủ tục, trách nhiệm phối hợp của các cơ quan liên quan trong việc xem xét tiếp nhận và thực hiện các yêu cầu của tòa án hay cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đề nghị Việt Nam ban hành lệnh, quyết định về kê biên, phong tỏa, tịch thu và trả lại tài sản do phạm tội mà có; đề nghị Việt Nam cho thi hành các lệnh, quyết định của tòa án hay cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài; cách thứ hai là sửa đổi Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 theo hướng tách tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự, xây dựng thành Luật Tương trợ tư pháp về hình sự.
- Bộ luật Hình sự: nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định một số hành vi tham nhũng là tội phạm trong Bộ luật Hình sự để bảo đảm sự tương thích với Công ước chống tham nhũng của Liên hợp quốc góp phần nâng cao hiệu quả xử lý các hành vi tham nhũng và thu hồi tài sản cho Nhà nước trong các vụ án tham nhũng, rửa tiền, chuyển đổi chủ sở hữu, tẩu tán tài sản ra nước ngoài đối với tài sản bất hợp pháp....
- Bộ luật Tố tụng hình sự: nghiên cứu hướng dẫn việc áp dụng Điều 507 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về hợp tác quốc tế trong xử lý tài sản do phạm tội mà có, làm rõ hơn nhiệm vụ của cơ quan đầu mối trong hợp tác thu hồi tài sản ở giai đoạn tham vấn, trao đổi thông tin trước khi lập yêu cầu tương trợ tư pháp chính thức.
Cần tiếp tục phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác minh, truy tìm tài sản của bị can, bị cáo từ thời điểm có quyết định khởi tố vụ án để có cơ sở xem xét trách nhiệm dân sự khi xét xử, nhất là trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ án tham nhũng; xác định rõ quyền sở hữu, quyền sử dụng các tài sản đã được áp dụng biện pháp bảo đảm từ thời điểm có quyết định khởi tố vụ án, đồng thời xác định rõ nghĩa vụ thi hành án của bị cáo để bảo đảm hiệu quả xử lý tài sản trong quá trình thi hành án, tránh phát sinh tranh chấp và khiếu nại, tố cáo của đương sự.
Cần đa dạng hóa các biện pháp thu hồi tài sản. Kinh nghiệm từ các nước đạt hiệu quả cao trong thu hồi tài sản như Ô-xtrây-lia, Xin-ga-po đều có áp dụng biện pháp thu hồi tài sản mang tính dân sự như đề nghị tòa án ban hành các lệnh kê biên, phong tỏa, tạm giữ, tịch thu…; đưa ra tài liệu, chứng cứ chứng minh tài sản đó có nguồn gốc bất hợp pháp, không phụ thuộc vào việc người bị nghi ngờ có bị kết tội hay không và trách nhiệm chứng minh nguồn gốc hợp pháp của tài sản là của đối tượng sở hữu. Ở Việt Nam, các biện pháp phong tỏa, kê biên chỉ được áp dụng sau khi khởi tố vụ án, trên thực tế nhiều vụ án các đối tượng là người có chức vụ, quyền hạn, có nhiều mối quan hệ đã kịp tẩu tán tài sản trước khi khởi tố vụ án. Cần nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền như công an, kiểm sát, ủy ban kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, thuế trong thu hồi tài sản…
Hai là, tăng cường hợp tác quốc tế về chống rửa tiền, chuyển đổi chủ sở hữu, tẩu tán tài sản ra nước ngoài đối với tài sản bất hợp pháp
Hoạt động thu hồi tài sản sẽ có hiệu quả cao hơn nếu huy động được sự hợp tác quốc tế, bao gồm cả cơ chế hợp tác chính thức (hợp tác chính phủ) và phi chính thức. Hiện có nhiều cơ chế hợp tác phi chính thức rất hiệu quả mà Việt Nam cần tích cực tham gia như Nhóm hợp tác chống rửa tiền khu vực châu Á - Thái Bình Dương (APG), Mạng lưới liên cơ quan về thu hồi tài sản do phạm tội mà có thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương (ARIN - AP)... Điều này cũng đồng nghĩa với việc cần chú trọng xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ chuyên trách về quản lý tài sản không chứng minh được nguồn gốc, trong đó có tài sản bất hợp pháp. Thực tiễn cho thấy, hợp tác quốc tế về thu hồi tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp là một lĩnh vực hết sức phức tạp và đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ chuyên trách, là những chuyên gia có trình độ, kiến thức pháp luật cao, bao gồm cả pháp luật trong nước, pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài, có trình độ ngoại ngữ, kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực này. Hoạt động hợp tác quốc tế cũng gặp một số trở ngại như các quy định pháp luật liên quan đến tương trợ tư pháp trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án… trong các vụ án tham nhũng khác nhau khá nhiều giữa các quốc gia thành viên; pháp luật về bảo mật thông tin ngân hàng tài chính ở hầu hết các quyền tài phán đều cấm tiết lộ thông tin cá nhân và tài khoản về khách hàng của họ, trừ một số trường hợp được pháp luật quy định.
Ba là, tiếp tục nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ am hiểu các vấn đề kỹ thuật - nghiệp vụ và có khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ
Hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm soát nguồn gốc và loại hình tài sản và xử lý tài sản không chứng minh được nguồn gốc sẽ đạt hiệu quả cao hơn nếu đội ngũ thực thi, bảo vệ pháp luật có trình độ chuyên môn, am hiểu các vấn đề kỹ thuật - nghiệp vụ và có khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng đối với các lĩnh vực đòi hỏi có những kiến thức chuyên biệt, nghiệp vụ phức tạp như lĩnh vực ngân hàng, tài chính, thuế, hải quan, chứng khoán, kho bạc nhà nước… Đây cũng là những lĩnh vực phải đối mặt với các tội phạm mạng dưới nhiều hình thức khác nhau như các yêu cầu về bồi thường bảo hiểm, rửa tiền, thanh toán điện tử, các giao dịch ngân hàng, trộm cắp thông tin cá nhân, lừa đảo di động, lừa đảo thẻ ngân hàng và thẻ tín dụng... và gây ra các tổn thất to lớn. Báo cáo của công ty phần mềm an ninh máy tính toàn cầu McAfee ước tính, năm 2018, tội phạm mạng, trong đó có gian lận tài chính, gây thiệt hại cho thế giới khoảng 600 tỷ USD, tương đương 0,8% GDP toàn cầu. Theo hãng tư vấn quản lý McKinsey, tổn thất toàn cầu do lừa đảo thẻ có thể lên đến gần 44 tỷ USD vào năm 2025.
Công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm soát trong thời đại kỹ thuật số hiện nay đã và đang đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ và thách thức lớn, khi mà các vi phạm pháp luật ngày càng có tính chất tinh vi, phức tạp và khó phát hiện. Những đối tượng rửa tiền, tẩu tán tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp ngày càng có trình độ cao về công nghệ thông tin, phạm vi hoạt động rộng, có thể thực hiện hành vi phạm tội ở nhiều nơi trong một quốc gia hoặc xuyên quốc gia, có tính tổ chức cao, với thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, phức tạp, khó lường. Nếu đội ngũ làm công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm soát của Đảng và Nhà nước chậm trễ ứng dụng các thành tựu công nghệ mới trong việc khai thác và phân tích khối lượng lớn dữ liệu liên quan đến các lĩnh vực phức tạp như đất đai, đầu tư, tài chính, ngân hàng... thì các hành vi vi phạm có thể vượt quá tầm giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm soát của các cơ quan có thẩm quyền. Điều này đặt ra yêu cầu phải đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý ngân hàng, tài chính, thuế, hải quan, chứng khoán, kho bạc nhà nước…; đẩy mạnh phát triển dịch vụ công trực tuyến và có giải pháp khuyến khích người dân sử dụng; bảo đảm hiệu quả, kịp thời, công khai, minh bạch trong thực thi công vụ, nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công. Thông qua trang thông tin điện tử, mạng in-tơ-nét, người dân tham gia giám sát có thể nắm bắt thông tin tình hình vi phạm; đồng thời, kết hợp với việc trao đổi thông tin, kiến thức về khoa học - công nghệ, kỹ năng sử dụng các phương tiện kỹ thuật, kinh nghiệm thẩm tra, xác minh, cảnh báo, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm.
Quan tâm hơn nữa đến việc tuyển dụng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên trách có đủ trình độ khoa học - công nghệ để sử dụng hiệu quả và phát huy tối đa hiệu quả của giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm soát. Điều này cũng gắn với yêu cầu phải hiện đại hóa các hệ thống quản lý, bảo đảm tính thống nhất, tính liên kết cao, bảo đảm sự chuẩn hóa phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và điều kiện cụ thể của Việt Nam. Cần nhanh chóng đổi mới và chuẩn hóa quy trình, phương pháp nghiệp vụ thẩm tra, xác minh kết hợp với việc ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin từ việc thu thập, tổng hợp, xử lý tài liệu, chứng cứ điện tử đến việc nhập dữ liệu, xử lý, phân tích, đánh giá thông tin, báo cáo kết quả, cảnh báo, phát hiện… nhằm kịp thời ngăn chặn và xử lý các giao dịch đáng ngờ, các hành vi vi phạm mới phát sinh./.
------------------------
* Bài viết là sản phẩm của đề tài khoa học cấp quốc gia: “Giám sát xã hội đối với thu nhập, tài sản và hành vi của cán bộ, công chức, viên chức theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, mã số KX.01.34/16-20, thuộc Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp quốc gia KX.01/16-20
(1) “Chống tham nhũng ở khu vực Đông Âu và Trung Á, Quy định về kê khai tài sản đối với công chức – Một công cụ để phòng ngừa tham nhũng”, OECD, Thanh tra Chính phủ, Nxb. Lao động, Hà Nội, năm 2015
(2) Danh mục các hiệp định về tương trợ tư pháp và pháp lý giữa Việt Nam và các nước có thể xem tại Cổng Thông tin điện tử về công tác lãnh sự, Bộ Ngoại giao
(3) Tội phạm rửa tiền trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam, http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-phap-luat/toi-pham-rua-tien-tren-the-gioi-va-khuyen-nghi-doi-voi-viet-nam-307856.html, truy cập 03-06-2019
(4) Văn Chiến: “Phòng chống rửa tiền: Nhìn từ các đại án kinh tế, tham nhũng", https://tapchitoaan.vn/bai-viet/tap-chi-giay/phong-chong-rua-tien-nhin-tu-cac-dai-an-kinh-te-tham-nhung
(5) Thông báo ngày 26-9-2018, của Tòa án nhân dân tối cao, “Về tình hình và kết quả công tác tương trợ tư pháp tại Tòa án nhân dân năm 2018"
Nguồn: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/820202/nhan-dang-nguon-goc%2C-loai-hinh-va-xu-ly-tai-san-khong-chung-minh-duoc-nguon-goc*.aspx