Một số khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án khi đương sự đang ở nước ngoài, không xác định được địa chỉ hoặc có địa chỉ nhưng không có căn cứ
09:00 20/04/2022
+ Trường hợp thứ nhất: Các đương sự khác khai đương sự này đang ở nước ngoài nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh.
+ Trường hợp thứ hai: Đương sự không cung cấp được địa chỉ ở nước ngoài nhưng có căn cứ họ đang ở nước ngoài
Trong hai trường hợp trên, hiện tại có một số trường hợp Thẩm phán niêm yết văn bản tố tụng đối với người này, có một số trường hợp Thẩm phán không tiến hành niêm yết.
+ Trường hợp thứ ba: Đương sự cung cấp địa chỉ ở nước ngoài nhưng không có căn cứ chứng minh họ đang ở địa chỉ trên như Điều 473 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định. Thẩm phán trong trường hợp này vẫn tiến hành ủy thác.
Tại Điều 6 của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định về xử lý việc ghi địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan như sau:
Trường hợp sau khi thụ lý vụ án, Tòa án không tống đạt được thông báo về việc thụ lý vụ án do bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không còn cư trú, làm việc hoặc không có trụ sở tại địa chỉ mà nguyên đơn cung cấp thì Tòa án giải quyết như sau:
a) Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ được ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở”. Trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thay đổi nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tổng đạt được cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
b) Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức theo hướng dẫn tại điểm d khoản 1 Điều 5 Nghị quyết này thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ trụ sở”. Trường hợp cơ quan, tổ chức thay đổi trụ sở mà không công bố công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 79 Bộ luật dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tống đạt được cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
c) Trường hợp không thuộc điểm a, b khoản 2 Điều này mà Tòa án đã yêu cầu nguyên đơn cung cấp địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng nguyên đơn không cung cấp được thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa án không xác định được địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này.
Trường hợp sau khi thụ lý vụ án mà phát sinh người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án yêu cầu nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập cung cấp địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đó. Nếu nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập không cung cấp được địa chỉ thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ theo quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa án không xác định được địa chỉ thì đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có liên quan đến người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đó theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này.
3. Tòa án vẫn tiếp tục giải quyết vụ án trong các trường hợp sau đây:
a) Đối với vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thuộc diện thừa kế mà nguyên đơn không cung cấp được địa chỉ và Tòa án đã tiến hành các biện pháp để thu thập, xác minh địa chỉ theo đúng quy định của pháp luật nhưng vẫn không xác định được địa chỉ của người đó thì Tòa án vẫn giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Phần tài sản mà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thuộc diện thừa kế chưa tìm được địa chỉ được nhận thì Tòa án tạm giao cho người thân thích của người đó hoặc người thừa kế khác quản lý. Quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thuộc diện thừa kế chưa tìm được địa chỉ sẽ được Tòa án giải quyết bằng một vụ án khác khi có yêu cầu;
b) Các trường hợp quy định tại điểm b, c khoản 5 và điểm c khoản 6 Điều 477 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
c) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật”.
Tại Điều 473 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định:
“1. Người khởi kiện, người yêu cầu phải ghi đầy đủ họ, tên, địa chỉ, quốc tịch của đương sự ở nước ngoài trong đơn khởi kiện, đơn yêu cầu kèm theo giấy tờ, tài liệu xác thực họ, tên, địa chỉ, quốc tịch của đương sự đó.
Trường hợp không ghi đầy đủ họ, tên, địa chỉ, quốc tịch của đương sự ở nước ngoài hoặc thiếu những nội dung trên thì phải bổ sung trong thời hạn do Tòa án ấn định, hết thời hạn đó mà không cung cấp được thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.
2. Trường hợp không xác định được địa chỉ của đương sự ở nước ngoài thì người khởi kiện, người yêu cầu có thể yêu cầu Tòa án Việt Nam đề nghị cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài xác định địa chỉ của đương sự hoặc có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú hoặc yêu cầu Tòa án Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài tuyên bố đương sự mất tích hoặc đã chết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật nước ngoài hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài trả lời cho Tòa án Việt Nam không xác định được địa chỉ của đương sự ở nước ngoài hoặc sau 06 tháng mà không có trả lời thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu”
Đối chiếu với quy định nêu trên, hiện nay vẫn có hai quan điểm:
- Đối với trường hợp thứ nhất: Các đương sự khác khai đương sự này đang ở nước ngoài nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh và trường hợp thứ hai: Đương sự không cung cấp được địa chỉ ở nước ngoài nhưng có căn cứ họ đang ở nước ngoài.
Quan điểm thứ nhất: Chỉ cần niêm yết văn bản tố tụng đối với người vắng mặt; quan điểm thứ hai: Cần phải thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú; quan điểm ba: Không cần thụ lý thành việc dân sự thông báo tìm kiếm vắng mặt tại nơi cư trú nhưng thực hiện việc thông báo tìm kiếm, đăng thông tin như đối với việc thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú.
Theo quan điểm của tác giả, đồng tình với quan điểm thứ ba bởi lẽ: Trong trường hợp này, việc niêm yết công khai sẽ không có hiệu quả (họ đã ở nước ngoài hoặc có khả năng ở nước ngoài), không còn có mặt ở địa phương nên căn cứ vào Điều 179, Điều 180 Bộ luật Tố tụng dân sự cần phải thông báo trên phương tiện đại chúng. Tuy nhiên do có yếu tố nước ngoài để đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của đương sự căn cứ vào Điều 474 Bộ luật Tố tụng dân sự cần Trong trường hợp này có cũng có thể ra thụ lý bằng vụ việc dân sự Thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, tuy nhiên có một số trường hợp đương sự trong vụ án không làm đơn yêu cầu tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú nên không thể giải quyết việc dân sự riêng biệt. Nếu chỉ cần thực hiện thông báo tìm kiếm, đăng thông tin ngay trong vụ án đang giải quyết thì: Thứ nhất đơn giản hóa thủ tục tố tụng cho đương sự, thứ hai nếu đương sự không nộp tiền chi phí tố tụng (tiền đăng thông tin), Thẩm phán căn cứ vào điểm đ Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự để đình chỉ giải quyết vụ án.
- Đối với trường hợp thứ ba, đương sự cung cấp địa chỉ ở nước ngoài nhưng không có căn cứ chứng minh họ đang ở địa chỉ trên như Điều 473 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định.
Quan điểm thứ nhất: Vẫn tiến hành ủy thác.
Quan điểm thứ hai: Yêu cầu họ phải có tài liệu xác định đúng là đương sự đang ở nước ngoài ở địa chỉ nêu trên. Nếu không thì sẽ trở lại như trường hợp thứ hai nêu trên.
Theo quan điểm của tác giả, tiến hành theo phương thức nào cũng được, tuy nhiên đối với trường hợp theo quan điểm thứ nhất thì yêu cầu đương sự phải cam kết chịu mọi chi phí tố tụng và hậu của việc ủy thác bởi lẽ có trường hợp việc ủy thác sẽ thực hiện được, có trường hợp việc ủy thác không thực hiện được sẽ dẫn đến vụ án không thể giải quyết và phải trở lại việc tuyên bố tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú hoặc tuyên bố một người bị mất tích (nếu đủ điều kiện).
Phòng Kiểm tra Nghiệp vụ và Thi hành án - Tòa án nhân dân thành phố
Nguồn: https://haiphong.toaan.gov.vn