Bàn về cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
08:38 06/10/2024
1. Đặt vấn đề.
Kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước là một hoạt động quan trọng trong tổ chức, thực thi quyền lực nhà nước. Dưới góc độ pháp lý, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là một tập hợp các quy định, luật lệ do các chủ thể đưa ra nhằm bảo đảm quyền lực được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Trong điều kiện Việt Nam, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước có thể được hiểu là một chỉnh thể các thể chế và các thiết chế có mối liên hệ chặt chẽ với nhau cùng vận hành nhằm ngăn ngừa, loại bỏ những hành vi vi phạm của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, bảo đảm cho quyền lực nhà nước được tổ chức và thực hiện theo đúng Hiến pháp và pháp luật.
2. Cơ sở khoa học về cơ chế kiểm soát cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Hệ thống chính trị là khái niệm được đề cập chính thức trong Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam (khoá VI) năm 1989. Trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay có các thiết chế: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, tất cả tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, có mục tiêu chung là tác động đến các quan hệ xã hội để chúng vận hành theo đường lối, chính sách của Đảng cầm quyền1. Sự phân công quyền lực, phân công lao động xã hội trong một chừng mực nhất định đã được xác lập trong Hiến pháp. Sự phân công lao động, quyền lực ở đây thông qua việc xác định vị trí, vai trò, chức năng của các thiết chế trong hệ thống chính trị. Chính sự phân công lao động, quyền lực ở đây đã tạo nên cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân làm chủ, tổ chức xã hội tham gia quản lý nhà nước và xã hội”2. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, kiểm tra, giám sát Nhà nước và xã hội thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng; Nhà nước kiểm tra hoạt động của các tổ chức đảng trên cơ sở những quy định của pháp luật, mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát đối với nhà nước. Như vậy, chính cơ chế sự phân công quyền lực dẫn tới sự kiểm soát lẫn nhau giữa các thiết chế trong hệ thống chính trị.
Kiểm soát cơ quan nhà nước ở nước ta có những đặc trưng sau:
Thứ nhất, kiểm soát quyền lực nhà nước phải dựa trên cơ sở những nguyên lý căn bản của lý thuyết phân quyền.
Thuyết phân quyền ra đời như là sự cứu cánh cho việc thiết lập một nhà nước dân chủ, pháp quyền tư sản, chống lại chế độ chuyên chế trong lịch sử của nhân loại. Trong tác phẩm nổi tiếng Bàn về tinh thần pháp luật (De L’esprit Des Lois, 1748), Montesquieu đã lập luận về sự cần thiết phải tách lập pháp và tư pháp ra khỏi hành pháp để phòng ngừa sự chuyên chế, nâng cao hiệu quả quản lý và để bảo vệ người dân khỏi sự lạm quyền từ phía các cơ quan nhà nước. Ông cho rằng, quyền lực nhà nước cần được phân thành ba loại, do ba cơ quan nắm giữ, đó là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp có vị trí độc lập, phối hợp, kiềm chế và kiểm soát lẫn nhau, qua đó phòng ngừa sự lạm dụng quyền lực nhà nước. Ngày nay thuyết phân quyền được vận dụng, áp dụng khá phổ biến ở các quốc gia trên thế giới với những mức độ khác nhau. Nhiều quốc gia trên thế giới đã ghi nhận nguyên tắc phân quyền là một trong những nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước, nhưng đồng thời thừa nhận sự thống nhất quyền lực nhà nước, sự thống nhất giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hiến pháp Việt Nam đã tiếp thu những yếu tố hợp lý của thuyết phân quyền, khái quát lên thành nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” theo Điều 2 Hiến pháp năm 2013. Chính sự phân công quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương là sự vận dụng lý thuyết phân quyền theo chiều ngang trong tổ chức quyền lực nhà nước.
Thứ hai, kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu của Nhà nước và của xã hội.
Nhà nước có nhu cầu kiểm soát hoạt động của các cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức, viên chức hay nhân viên nhà nước nói chung nhằm phát hiện những sai phạm, những khiếm khuyết của bộ máy nhà nước, của cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên nhà nước để tự hoàn thiện khắc phục nhằm đáp ứng sự phát triển của xã hội. Nhà nước thực hiện sự quản lý đối với toàn xã hội thông qua các chính sách, pháp luật. Thông qua hoạt động kiểm soát việc thực hiện chính sách, pháp luật để đánh giá mức độ thực hiện, sự phù hợp của chính sách, pháp luật với các quy luật tự nhiên, quy luật xã hội, hoàn thiện chính sách, pháp luật. Đây là yêu cầu đòi hỏi, nhu cầu của Nhà nước để tự hoàn thiện, thích nghi với những thay đổi của quá trình quản lý, không ngừng vận động phát triển theo tiến trình phát triển của xã hội. Ngoài ra, Nhà nước là chủ sở hữu lớn nhất của nền kinh tế – xã hội và cũng là người tiêu dùng lớn nhất của nền kinh tế quốc dân. Tất cả mọi chi tiêu công của nhà nước đều phải được công khai, minh bạch, tiết kiệm. Chính vì vậy, mọi hoạt động chi tiêu công của nhà nước đều phải được kiểm soát không chỉ trong nội bộ Nhà nước mà từ phía các công dân, tổ chức đã nộp thuế để nuôi dưỡng bộ máy nhà nước. Như vậy, chính điều này đòi hỏi mọi hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phải được kiểm soát từ xã hội – từ các công dân, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội.
Thứ ba, cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp hiện nay.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, đồng thời bổ sung “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”3. Vấn đề đặt ra ở đây là các cơ quan này kiểm soát lẫn nhau như thế nào để bảo đảm cho việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp… Nhà nước ta đã nhanh chóng thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về kiểm soát quyền lực nhà nước thành các quy định trong Hiến pháp và các bộ luật, luật cụ thể. Kiểm soát quyền lập pháp Quốc hội với vị trí và tính chất pháp lý là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngoài chức năng lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, còn có chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động nhà nước có nghĩa giám sát cả hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, không loại trừ hoạt động của một cơ quan nào của Nhà nước.
Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội trước hết thể hiện qua hoạt động giám sát đối với việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xem xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Chính phủ, Tòa án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao. Để bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật, tính hợp hiến và hợp pháp của các văn bản pháp luật do các cơ quan khác của nhà nước ban hành Quốc hội có quyền “Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội” (Điều 70 Hiến pháp năm 2013). Quyền bãi bỏ văn bản của Quốc hội là kết quả của hoạt động giám sát về tính hợp hiến, hợp pháp đối với các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước khác ban hành.
Để bảo đảm quyền giám sát tối cao của Quốc hội, khi Quốc hội không họp, Hiến pháp trao cho cơ quan thường trực của Quốc hội – Ủy ban Thường vụ Quốc hội chức năng giám sát. Điều đáng lưu ý ở đây là Ủy ban Thường vụ của Quốc hội giám sát thi hành Hiến pháp…; hoạt động của Chính phủ…, điều này khác hẳn với giám sát của Quốc hội. Để bảo đảm quyền lực, sự thực quyền hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Điều 74, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ủy ban Thường vụ Quốc hội có quyền đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc hủy bỏ các văn bản đó; các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội”.
Ngoài ra sự kiểm soát của Quốc hội đối với các cơ quan khác của Nhà nước còn được thực hiện thông qua quyền chất vấn của các đại biểu Quốc hội đối với: Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Thêm vào đó Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội cũng thực hiện hoạt động giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về các lĩnh vực tương ứng do Hội đồng và các Ủy ban phụ trách. Tương tự như vậy, Hội đồng nhân dân thực hiện quyền kiểm soát thông qua chức năng giám sát đối với các cơ quan nhà nước (Ủy ban nhân dân cùng cấp, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân, cơ quan nhà nước ở cấp trên đóng trên địa bàn địa phương và chính quyền địa phương cấp dưới) thông qua hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân.
Sự kiểm soát của các cơ quan nhà nước đối với cơ quan tư pháp cũng được xác lập trong Hiến pháp thông qua cơ chế giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với Tòa án, thông qua chế độ trách nhiệm và báo cáo của Chánh án tòa án các cấp với cơ quan quyền lực nhà nước. Tòa án với cơ quan quyền lực nhà nước mang tính chính trị nhiều hơn là tính pháp lý. Điều này được khẳng định bởi nguyên tắc: Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, do đó không thể có một thiết chế nào có thể can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án. Nhưng điều đó không có nghĩa là không thể kiểm soát được tình trạng chung về hoạt động xét xử của Tòa án. Điều này thể hiện qua quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội đối với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, chất vấn của đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện đối với Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện.
Do tính chất phức tạp, thường xuyên, tính quyền lực thực tế của quyền lực hành pháp, hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, để bảo đảm thực hiện quyền hành pháp thống nhất, bảo đảm pháp chế, kỷ luật, kỷ cương trong hành chính, hệ thống hành chính nhà nước thực hiện nhiều hoạt động kiểm soát khác nhau: Hoạt động kiểm tra trong nội bộ hệ thống hành chính, hoạt động kiểm tra trong nội bộ cơ quan hành chính; hoạt động thanh tra của thanh tra nhà nước, thanh tra nhà nước chuyên ngành đối với mọi hoạt động hành chính nhà nước. Tuy vậy, mọi hoạt động này cũng chỉ có tính nội bộ của hệ thống hành chính nhà nước nên hiệu lực, hiệu quả chưa cao bởi sự không độc lập của hệ thống thanh tra, kiểm tra. Về cơ bản tùy thuộc vào cơ quan hành chính mà các cơ quan kiểm tra, thanh tra trực thuộc.
Hệ thống hành chính nhà nước thực hiện việc kiểm soát đối với cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương thông qua quyền của Thủ tướng đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội bãi bỏ. Quyền này cũng được áp dụng tương tự đối với Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện đối với các nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện và cấp xã. Như vậy, xuất hiện sự kiểm soát của cơ quan hành chính cấp trên đối với cơ quan quyền lực nhà nước cấp dưới thông qua chế độ trách nhiệm và báo cáo của cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới với cơ quan hành chính nhà nước cấp trên thông qua quyền đình chỉ, bãi bỏ văn bản do cơ quan hành chính cấp dưới ban hành của cơ quan hành chính cấp trên. Hệ thống hành chính thực hiện sự kiểm tra theo chức năng, thanh tra đối với các cơ quan khác của nhà nước trong một số lĩnh vực nhất định của quản lý nhà nước, chẳng hạn trong lĩnh vực tài chính, kinh tế, môi trường, đất đai…
Thứ tư, sự kiểm soát của cơ quan tư pháp đối với các cơ quan khác của Nhà nước.
Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 không trực tiếp quy định quyền kiểm soát (giám sát) của Tòa án đối với các cơ quan khác của nhà nước, quyền này của Tòa án chỉ có thể được suy ra rằng hoạt động kiểm soát của Tòa án đối với các cơ quan khác của Nhà nước được thực hiện thông qua hoạt động xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình, đặc biệt là khi xét xử các vụ án hành chính. Thông qua hoạt động xét xử tòa án có quyền đề nghị hay yêu cầu các cơ quan, tổ chức áp dụng các biện pháp để khắc phục, loại trừ những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm, vi phạm pháp luật hoặc hoàn thiện pháp luật, chính sách, cải tiến phương thức quản lý. Thông qua hoạt động xét xử hành chính, Tòa án thực hiện hoạt động giám sát của mình đối với hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước và các cơ quan khác của Nhà nước trong việc ban hành các quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính. Nhưng Tòa án chỉ có quyền phán quyết về tính hợp pháp hay không hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính.
3. Những hạn chế pháp luật về cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Từ sự phân tích ở trên, có thể thấy, cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay đang đặt ra một số vấn đề:
Một là, cơ chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước mặc dù đã được thiết lập, nhưng chưa thể hiện được đầy đủ tinh thần được ghi nhận trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng như trong Hiến pháp năm 2013 là có sự “kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Chúng ta mới chỉ thiết lập được cơ chế kiểm soát quyền lực của Quốc hội đối với cơ quan hành pháp và tư pháp mà chưa có cơ chế kiểm soát quyền lực ngược lại, tức là chưa có cơ chế kiểm soát quyền lực của hai cơ quan này đối với Quốc hội. Điều này xuất phát từ quan điểm cho rằng, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, do Nhân dân bầu ra, vì vậy, tất cả các quyền lực nhà nước khác đều phải đặt dưới quyền lực tối cao của Quốc hội.
Hai là, ngay cả các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước đã được xác lập, được ghi nhận trong Hiến pháp hay được thể chế hóa trong các điều luật, trên thực tế, tính hiệu lực và hiệu quả của chúng vẫn còn khá khiêm tốn. Cho đến nay, trong quá trình thực hiện quyền giám sát tối cao của mình, Quốc hội hiếm khi đưa ra quyết định về việc bãi bỏ một phần hay toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của các đối tượng mà mình giám sát. Bên cạnh đó, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía xã hội mặc dù ngày càng được chú trọng nhưng nhìn chung, hiệu quả chưa cao. Nguyên nhân là do những quy định về cách thức tham gia kiểm soát của các đối tượng còn chưa phù hợp; thẩm quyền, năng lực chuyên môn của các đối tượng tham gia kiểm soát còn hạn chế…
Ba là, việc kiểm soát quyền lực thời gian qua vẫn chưa chặt chẽ, hiệu quả chưa cao, thậm chí có lúc, có nơi chưa được kiểm soát, dẫn đến tha hóa quyền lực, nhất là tình trạng lộng quyền, lạm quyền, lợi dụng quyền lực, quan liêu,… còn diễn ra ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là sự tha hóa quyền lực trong công tác cán bộ… Sự tha hóa quyền lực của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nhất là của cán bộ lãnh đạo, quản lý biểu hiện rất tinh vi theo từng vụ, việc. Lợi dụng tính thiếu công khai, minh bạch, thiếu cơ chế và chế tài kiểm soát quyền lực, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức thường lợi dụng kẽ hở trong các quy định của Đảng và Nhà nước để trục lợi.
4. Nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước trong giai đoạn mới
Kiểm soát quyền lực nhà nước là một quá trình liên tục, đồng bộ. Mối quan hệ quyền lực và kiểm soát quyền lực ở Việt Nam hiện nay là tất yếu khách quan, tuy nhiên vừa có tính phổ biến, vừa có tính đặc thù lịch sử. Do đó, nhằm góp phần khắc phục hạn chế, thiếu sót để thực hiện mục tiêu hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, được kiểm soát hiệu quả, cần tập trung thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó chú trọng một số giải pháp trọng tâm như sau:
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu xây dựng hệ thống lý luận đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó cần làm sâu sắc lý luận và thực tiễn kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta. Nâng cao văn hóa pháp luật, pháp quyền, ý thức thượng tôn Hiến pháp và pháp luật của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong thực thi quyền lực nhà nước bằng việc đổi mới mạnh mẽ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Đề cao trách nhiệm của các tổ chức đảng và đảng viên trong việc học tập, quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, về thượng tôn Hiến pháp, pháp luật và kiểm soát quyền lực nhà nước nói riêng.
Thứ hai, rà soát các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các thiết chế hiến định để phân công, quyền lực nhà nước phù hợp, khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp hoặc quy định không đúng hay bỏ sót chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Kiểm soát quyền lực nhà nước chỉ có hiệu lực và hiệu quả trên cơ sở phân công quyền lực nhà nước một cách đúng đắn, rõ ràng và minh bạch. Theo đó, cần tiếp tục phân công quyền lực một cách đúng đắn và phù hợp giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Hiện nay, trong một số luật về tổ chức bộ máy nhà nước còn có sự phân công, phân nhiệm không phù hợp. Ví dụ: “Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn bộ máy giúp việc Tòa án nhân dân tối cao” (Khoản 9, Điều 27 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014); “Tòa án nhân dân tối cao quản lý Tòa án nhân dân về tổ chức” (khoản 1, Điều 18 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014). Các nhiệm vụ, quyền hạn này cần được phân công cho Chính phủ, cơ quan được Hiến pháp quy định là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp. Trên thực tế, do thiếu luật nên trong một số vấn đề đã phải ủy quyền lập pháp cho Chính phủ, các bộ, các ngành ban hành các văn bản pháp quy để điều chỉnh4. .Có như vậy Chính phủ mới kiểm soát được các hoạt động mang tính hành chính nhà nước trong việc thực hiện quyền tư pháp.
Nghiên cứu mở rộng thẩm quyền của Tòa án để quyền tư pháp phát huy đầy đủ vai trò của mình. Mở rộng thẩm quyền cho Tòa án tài phán các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật mà công dân cho rằng cơ quan có thẩm quyền đã áp dụng là trái với Luật của Quốc hội hay Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Như vậy, quyền tư pháp mới phát huy được vai trò kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp. Quy định rõ hơn phạm vi, đối tượng, phương pháp, hình thức giám sát tối cao của Quốc hội; nâng cao chất lượng hoạt động chất vấn, giải trình, giám sát văn bản quy phạm pháp luật; đổi mới việc lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội nhằm nâng cao hơn nữa hiệu lực và hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước của Quốc hội đối với các quyền hành pháp và tư pháp.
Quy định rõ hơn vị trí, vai trò, thẩm quyền, trách nhiệm của Chính phủ trong công tác xây dựng pháp luật, trong quy trình lập pháp của Quốc hội, bảo đảm Chính phủ vừa phối hợp với Quốc hội, vừa tăng cường kiểm soát hoạt động lập pháp của Quốc hội. Cần bổ sung và sửa đổi các quy định pháp luật hiện hành để Chính phủ có thể kiểm soát được các hoạt động hành chính nhà nước trong tổ chức và hoạt động của quyền lập pháp.
Thứ ba, cùng với việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; cần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật để trong mỗi quyền, mỗi cơ quan đều có cơ chế tự kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước đủ mạnh để tự mình kiểm soát hiệu quả quyền lực nhà nước của mình. Nghiên cứu hình thành cơ chế tự kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Ví dụ, hình thành cơ chế kiểm soát, đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Thanh tra Chính phủ, thanh tra các bộ, ngành và thanh tra của các địa phương thực sự là công cụ kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước trong các cơ quan hành chính nhà nước, khắc phục nhận thức một chiều thanh tra là công cụ quản lý nhà nước, phục vụ thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước.
Thứ tư, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền một cách khoa học, hợp lý; nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, sáng tạo của chính quyền địa phương gắn với kiểm tra, giám sát chặt chẽ của cấp trên đối với cấp dưới. Xác định rõ cơ chế phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương trên từng ngành, từng lĩnh vực; khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, bảo đảm trách nhiệm rõ ràng, trên cơ sở đó tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra cấp trên đối với cấp dưới. Kiện toàn cơ chế thanh tra, kiểm tra ở mỗi cấp đủ mạnh để kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước ở cấp mình và cấp dưới. Ðẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân về Hiến pháp và pháp luật, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Quán triệt sâu sắc việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị, được tiến hành đồng bộ với thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường phân cấp, phân quyền, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước đi đôi với nâng cao năng lực thực thi; xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả5.
Thứ năm, phối hợp chặt chẽ giữa cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong bộ máy nhà nước với cơ chế kiểm tra, giám sát của Đảng đối với Nhà nước và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của Nhân dân (cơ chế kiểm soát quyền lực bên ngoài). Hoàn thiện cơ chế để Nhân dân trực tiếp kiểm soát quyền lực nhà nước; bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, quyền kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo và các quyền khác của công dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội, đoàn thể và các cơquan báo chí trong giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước6.
Xây dựng quy chế, quy trình phối hợp chặt chẽ giữa giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của các cơ quan của Quốc hội với giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội hằng năm. Phối hợp chặt chẽ giữa Thanh tra Chính phủ, thanh tra các bộ, ngành và chính quyền địa phương với Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ủy ban kiểm tra các cấp ủy Đảng trong việc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên trong bộ máy Đảng và Nhà nước. Hình thành cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để không thể tham nhũng, tiêu cực; phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, tiêu cực để không dám tham nhũng, tiêu cực; xây dựng văn hóa liêm chính, tiết kiệm để không cần, không muốn tiêu cực, tham nhũng./.
1. Đỗ Nguyên Phương – Trần Ngọc Đường (1992). Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền. H. NXB Sự thật, tr. 6.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 140.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 171.
4. Đào Trí Úc (2014). Hiến pháp năm 2013 và các nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước- Hội thảo “Tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 2013” do Tạp chí Nghiên cứu lập pháp phối hợp với Viện Chính sách công và Pháp luật tổ chức tại Hà Nội, ngày 06/5/2014.
5. Nghị quyết số 27-NQ/TW- Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII), tr 02.
Tài liệu tham khảo:
1. Quốc hội (2013). Hiến pháp năm 2013.
2. Quốc hội (2014). Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014.
3. Quốc hội (2014). Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014.
4. Quốc hội (2014). Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
5. Quốc hội (2015). Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
6. Quốc hội (2015). Luật Tổ chức Chính phủ 2015.
7. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014). Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam. NXB Công an nhân dân.
8. Trường Đại học Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (2014). Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam. H. NXB Đại học Quốc gia.
9. Montesquieu (1748). Bàn về tinh thần pháp luật (De L’esprit Des Lois).
ThS. Đặng Thu Hương
Học viện Cảnh sát nhân dân