Hoàn thiện cơ chế bầu cử nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng đại biểu dân cử và bảo đảm tốt hơn quyền bầu cử của Nhân dân

16:40 09/01/2024

Từ năm 1946 đến nay, các quy định của pháp luật về bầu cử ở nước ta được hình thành, sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện hơn. Các bước tiến hành từ khâu chuẩn bị, tổ chức triển khai thực hiện cho đến khi kết thúc đã có những quy định toàn diện, bảo đảm để các cuộc bầu cử được diễn ra dân chủ, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm.

Pháp luật về bầu cử ở nước ta được hình thành, sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện

Đánh giá chế độ bầu cử của một quốc gia phát triển, tiến bộ đến đâu, ở mức độ nào thì cần nhìn vào sự hoàn thiện, đồng bộ của hệ thống pháp luật, mà trước tiên là pháp luật về bầu cử của quốc gia đó. Quyền bầu cử là quyền cơ bản của công dân, vì vậy, nhiều nước trên thế giới, trong đó bao gồm cả Việt Nam đã Hiến định quyền này và coi đây là quyền bất khả xâm phạm, là quyền chính trị thiêng liêng nhất của mỗi công dân.

Để chế độ bầu cử hoàn thiện và đi vào cuộc sống nếu chỉ dừng lại ở việc ghi nhận quyền này trong Hiến pháp là chưa đủ mà còn phải có các cơ chế hữu hiệu bảo đảm thực thi quyền này trên thực tế. Ở mỗi quốc gia, cơ chế bảo đảm thực thi chế độ bầu cử có những đặc điểm khác nhau, phụ thuộc vào các điều kiện đặc thù về kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, dân tộc, lịch sử chính trị... và trình độ phát triển về pháp luật, ý thức pháp luật...

Tuy nhiên, các quốc gia đều luôn hướng tới xây dựng một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bầu cử hoàn chỉnh, thống nhất, phù hợp, không chồng chéo, mâu thuẫn, là cơ sở pháp lý để thực thi một cách có hiệu quả chế độ bầu cử. Công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật với tầm nhìn tổng thể, dài hạn, cụ thể hóa đầy đủ, kịp thời các quy định của Hiến pháp, thể chế hóa các chủ trương của Đảng thành quy định của luật. Cụ thể là: phải xác định rõ vị trí pháp lý, vai trò, cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn, nhất là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức phụ trách công tác bầu cử; về quyền và nghĩa vụ của cử tri; về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội (ĐBQH), đại biểu Hội đồng nhân dân (ĐB HĐND) các cấp; về nguyên tắc bầu cử; về trình tự, thủ tục, cách thức tiến hành bầu cử, ... Các quy định trong các văn bản pháp luật phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, chính xác, rõ ràng, cụ thể, ổn định, dễ hiểu, dễ áp dụng, đồng thời phải thống nhất với cả hệ thống pháp luật. Văn bản pháp luật về bầu cử không chỉ thống nhất nội tại với nhau mà còn phải bảo đảm đồng bộ, nhất quán với toàn bộ hệ thống pháp luật hiện hành, nhất là các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước.

Ngoài ra, đối với các quy định của luật chưa thể thực hiện ngay được, cần phải có văn bản hướng dẫn, nhất thiết phải khẩn trương ban hành kịp thời để bảo đảm hiệu lực đồng bộ, cùng lúc với văn bản luật, hạn chế đến mức tối đa việc đã có các quy định nhưng chỉ dừng lại ở những nguyên tắc mà chưa thể áp dụng được ngay trên thực tế. Điều này sẽ làm mất đi tính hiệu lực, hiệu quả của các văn bản pháp luật, dẫn đến tình trạng quy định “treo”, ảnh hưởng đến chất lượng các cuộc bầu cử. Nói tóm lại, để bầu cử có thể diễn ra thuận lợi, hiệu quả, dân chủ, chế độ bầu cử ngày càng phát triển, hoàn thiện thì cần có một hệ thống pháp luật đầy đủ, chặt chẽ, thống nhất, đồng bộ, bảo đảm có thể thực hiện một cách tốt nhất quyền bầu cử của cử tri.

Trong hoàn thiện chế độ bầu cử cả về thể chế và thực thi pháp luật, việc đề cao vai trò, tính tối thượng của Hiến pháp, pháp luật là tất yếu khách quan. Việc nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, gắn với tăng cường tổ chức tốt việc thi hành pháp luật, nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là những đòi hỏi bức thiết. Tinh thần thượng tôn pháp luật cùng với một hệ thống pháp luật hoàn thiện, thống nhất, đồng bộ sẽ là điều kiện, cơ sở cho việc xây dựng và thực thi chế độ bầu cử thực sự dân chủ; bảo đảm thực hiện trên thực tế chủ quyền nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân.

Từ năm 1946 đến nay, các quy định của pháp luật về bầu cử ở nước ta được hình thành, sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện hơn. Các bước tiến hành từ khâu chuẩn bị, tổ chức triển khai thực hiện cho đến khi kết thúc đã có những quy định khá cụ thể, toàn diện, bảo đảm để các cuộc bầu cử được diễn ra dân chủ, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm. Triển khai thực hiện các quy định về bầu cử, công tác lãnh đạo, chỉ đạo tập trung của các cơ quan Trung ương; sự nỗ lực, tích cực, sát sao trong tổ chức thực hiện của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương và sự tham gia tích cực của cử tri cả nước đã góp phần tạo nên sự thành công của các cuộc bầu cử.

Một số giải pháp đổi mới nhằm tiếp tục hoàn thiện chế độ bầu cử ở Việt Nam 

Trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cùng với việc hoàn thiện các quy định về đại biểu thì việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về bầu cử bao gồm các vấn đề về nguyên tắc bầu cử, quyền bầu cử, ứng cử, cơ cấu, tiêu chuẩn, phương thức lựa chọn, giới thiệu, hiệp thương, thủ tục bầu cử, bảo đảm tính đại diện, tính quyền lực của nhân dân và chất lượng ĐBQH, ĐB HĐND… là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến tổ chức và hoạt động của Quốc hội, HĐND. Quốc hội, HĐND cần có cơ cấu, thành phần đại biểu có chất lượng cao, phù hợp với vị trí, vai trò và chức năng của Quốc hội, HĐND. ĐBQH, ĐB HĐND phải là người thực sự có phẩm chất, năng lực và điều kiện tham gia thực hiện các nhiệm vụ to lớn của Quốc hội, HĐND, đặc biệt là cần có đủ người để tham gia thiết thực vào hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội, các Ban của HĐND và để bố trí đại biểu hoạt động chuyên trách. Bên cạnh vấn đề về trình độ, năng lực, các ĐBQH, ĐB HĐND còn phải là những người có phẩm chất chính trị tốt, trong sạch, có bản lĩnh, kiên định, có quan điểm đúng đắn và dám đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và luôn lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của cử tri, Nhân dân, luôn gần gũi với Nhân dân.

Quốc hội cần có cơ cấu, thành phần đại biểu tiêu biểu cho các giai tầng, thành phần và các dân tộc, bao gồm đại biểu của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, đại diện của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các hiệp hội, doanh nghiệp ..., có tỷ lệ hợp lý ĐBQH là người dân tộc thiểu số, là phụ nữ và người ngoài Đảng.. Ngoài ra, để bảo đảm tính kế thừa, tính chuyên nghiệp trong hoạt động của ĐBQH giữa các khóa Quốc hội thì mỗi cuộc bầu cử khóa mới nên có số ĐBQH khóa trước tái cử khoảng từ 40 đến 60% tổng số ĐBQH.

Cơ cấu đại biểu Quốc hội khóa XV
Cơ cấu đại biểu Quốc hội khóa XV

Pháp luật về bầu cử ĐBQH được hoàn thiện phải phát huy được dân chủ trong việc giới thiệu lựa chọn và hoàn thiện cơ chế sao cho trên thực tế người dân, cử tri có điều kiện đi bầu được các đại biểu thực sự có tầm, vừa đại diện cho lợi ích của Nhân dân cả nước, vừa kết hợp hài hòa với lợi ích của cử tri ở đơn vị bầu cử mà người đó là đại biểu.

Một là, về quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân: Việc hoàn thiện pháp luật về bầu cử ĐBQH ở Việt Nam theo hướng mở rộng phạm vi lựa chọn của cử tri bằng việc tăng đáng kể số người ứng cử cho mỗi đơn vị bầu cử so với hiện nay, quy định cụ thể trình tự, thủ tục tự ứng cử để tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền này một cách tự do, bình đẳng là phù hợp với xu thế chung của các nước trên thế giới trong điều kiện hội nhập và tăng cường hơn nữa nền dân chủ ở Việt Nam. Đây có thể được coi là bước ngoặt đột phá trong pháp luật về bầu cử, góp phần bảo đảm trên thực tế các điều kiện để công dân có thể thực hiện tốt hơn quyền về chính trị đã được Hiến pháp quy định.

Đồng thời, đây cũng là yếu tố quan trọng để Nhân dân, cử tri lựa chọn được người có đầy đủ phẩm chất, đạo đức, năng lực, bản lĩnh, trình độ và tầm hiểu biết để tham gia vào Quốc hội. Vì vậy, cần quy định cụ thể ngay trong Luật Bầu cử ĐBQH và ĐB HĐND số dư hợp lý của mỗi đơn vị bầu cử chứ không nên chỉ quy định chung như hiện nay là nhiều hơn số đại biểu được bầu. Theo đó, số dư cần được quy định theo hướng tối thiểu phải bằng số ĐBQH được bầu. Cuộc bầu cử Quốc hội khóa I năm 1946 đã cho chúng ta nhiều kinh nghiệm về số dư của mỗi đơn vị bầu cử, theo đó cử tri có điều kiện rộng rãi, thuận lợi trong việc lựa chọn đại biểu mà mình muốn bầu.

Việc quy định một cơ chế hợp lý mang tính cởi mở với tính khả thi cao để người tự ứng cử có điều kiện thuận lợi thực hiện quyền của mình là thể hiện rõ nét nhất chủ trương mở rộng dân chủ trong bầu cử ở Việt Nam. Đây là vấn đề cần sớm được hoàn thiện, bảo đảm để người tự ứng cử có các điều kiện trong việc nộp hồ sơ, hiệp thương, ghi tên vào danh sách, vận động tranh cử, lấy ý kiến cử tri nơi công tác, nơi cư trú được bình đẳng, thuận lợi như những ứng cử viên khác được giới thiệu ứng cử.

Hai là, vấn đề tiêu chuẩn, cơ cấu đại biểu: Trong những năm gần đây, Quốc hội, HĐND đã thực sự trở thành nơi để cử tri và Nhân dân cả nước gửi gắm niềm tin và nguyện vọng của mình. Kết quả này do nhiều nguyên nhân, trong đó có phần đóng góp quan trọng của các ĐBQH, ĐB HĐND, các cuộc bầu cử ĐBQH, ĐB HĐND. Trong điều kiện hiện nay và những năm tới, để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của các cơ quan dân cử, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân thì việc lựa chọn những đại biểu thực sự có đức, có tài, có tâm được coi là điều kiện tiên quyết để góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước, tăng cường chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, HĐND là yêu cầu khách quan đang được đặt ra. Theo đó, vấn đề tiêu chuẩn và cơ cấu phải được đặc biệt quan tâm trong các cuộc bầu cử để họ có đủ năng lực và điều kiện thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ đại biểu của mình.

Về tiêu chuẩn đại biểu: Trong công tác cán bộ, tiêu chuẩn được hiểu là một hệ thống các tiêu chí về phẩm chất, trình độ, năng lực, bản lĩnh, kinh nghiệm công tác của người cán bộ cần có để hoàn thành nhiệm vụ ở từng cương vị công tác. Thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác cán bộ nói chung cũng như về tiêu chuẩn cán bộ nói riêng đã được quy định trong các văn kiện, Nghị quyết của Đảng, Luật Tổ chức Quốc hội (Điều 22) đã quy định về tiêu chuẩn của ĐBQH. 

 Vấn đề tiêu chuẩn đối với ĐBQH được đặt ra trên các mặt: phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực, các phẩm chất gắn với hoạt động của người đại biểu và các điều kiện bảo đảm hoạt động của ĐBQH mới dừng lại ở mức độ định tính mang tính nguyên tắc. Đây là những quy định chung, đã đặt ra được những yêu cầu cơ bản cần thiết phải có đối với mỗi công dân khi tham gia làm đại biểu. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu hoàn thiện về tiêu chuẩn, vấn đề này cần được quy định cụ thể hơn nữa, mang tính định lượng và đối với từng đối tượng cụ thể làm cơ sở vững chắc và minh bạch cho việc lựa chọn để bầu đại biểu dân cử.

Như vậy, để có thể trở thành đại biểu dân cử, về mặt pháp lý, phải căn cứ vào tiêu chuẩn của đại biểu đã được quy định trong Luật Tổ chức Quốc hội; Luật Tổ chức chính quyền địa phương; bên cạnh đó còn phải căn cứ vào tiêu chuẩn với cán bộ đã được quy định trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng, nhất là khả năng thực tế của từng người khi tham gia. Tiêu chuẩn đại biểu là một tiêu chí quan trọng gắn liền với nhân thân là điều kiện tiên quyết để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đại biểu. Ở đây, một điểm cần lưu ý là khi đã trở thành đại biểu cần phải tham gia bàn luận những vấn đề rộng lớn, mang tầm của cả nước hoặc của địa phương, những vấn đề mới và khó, có tác động đến toàn xã hội, đó là những vấn đề vừa đòi hỏi lý luận vừa cần đến thực tiễn, khác rất nhiều với công việc lâu nay họ đang từng đảm nhiệm. Do đó, tiêu chuẩn đại biểu là một căn cứ quan trọng để cử tri có cơ sở lựa chọn, giới thiệu người ra ứng cử hoặc tự ứng cử, bầu cử.

Về định hướng lớn về cơ cấu trong những nhiệm kỳ tới cần thực hiện quyết liệt chủ trương đã được nêu ra ngay từ khi ban hành Hiến pháp năm 1992 là cần phải giảm đáng kể số lượng các ĐBQH đang làm việc trong các cơ quan hành pháp và tư pháp (đại biểu không chuyên trách) cùng với đó là khẩn trương tăng cường tỷ lệ ĐBQH hoạt động chuyên trách tại Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội.

Về quan hệ giữa tiêu chuẩn, cơ cấu đại biểu: Tiêu chuẩn và cơ cấu đại biểu có mối quan hệ biện chứng với nhau, là yêu cầu khách quan nhằm bảo đảm mục tiêu, hiệu quả hoạt động. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu đại biểu vừa đáp ứng tính truyền thống trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội Việt Nam, vừa hướng tới giải quyết những yêu cầu của công cuộc đổi mới đã và đang đặt ra cho Quốc hội.

Hội nghị hiệp thương lần thứ ba của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã thông qua danh sách 205 người ở các cơ quan Trung ương đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XV.

Ba là, về hiệp thương lựa chọn, giới thiệu ứng cử viên. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể phải vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện quyền làm chủ xây dựng Nhà nước, trước hết là bầu ra cơ quan dân cử (Quốc hội và HĐND các cấp) một cách thực sự dân chủ, thông qua việc giới thiệu người ứng cử, tổ chức hiệp thương dân chủ, tuyên truyền vận động bầu cử; kiên quyết khắc phục lối dân chủ hình thức, làm thay Nhân dân. Trong quy trình hiệp thương, lựa chọn giới thiệu người ứng cử phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, thông qua việc phát huy vai trò của Mặt trận, các đoàn thể quần chúng để phát huy quyền làm chủ thực sự của Nhân dân là vấn đề có ý nghĩa then chốt. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, do đó, tổ chức này có nhiệm vụ rất quan trọng trong công tác bầu cử.

Bốn là, về đơn vị bầu cử. Như trên đã trình bày, nguồn của ĐBQH, ĐB HĐND là rất đa dạng, phong phú bao gồm đại diện của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước ở Trung ương và ở địa phương, đơn vị lực lượng vũ trang, các tổ chức kinh tế, các hiệp hội. Do đó, cách thức tổ chức đơn vị bầu cử theo đơn vị hành chính như hiện nay chỉ phù hợp với việc cử tri ở nơi đó bầu ra người đại diện của mình là những người cư trú và làm việc tại địa phương. Vì tính chất đại diện quyền lực nhà nước trước hết phải gắn với các đảng chính trị, các nhóm xã hội, cộng đồng dân cư, một lãnh thổ nhất định. Cơ chế gửi các ứng cử viên do Trung ương giới thiệu về các đơn vị bầu cử ở địa phương đang đặt ra nhiều vấn đề cần được nghiên cứu hoàn thiện.

Theo đó, cần nghiên cứu quy định bổ sung các tiêu chí cụ thể về phân chia đơn vị bầu cử và phân bổ người ứng cử theo đơn vị bầu cử; quy định cơ chế kiểm tra, giám sát để bảo đảm sự bình đẳng khi phân bổ, công bố danh sách ứng cử ở từng đơn vị bầu cử để bảo đảm tính công khai, minh bạch cũng như sự bình đẳng giữa các ứng cử viên và nhất là về giá trị pháp lý giữa các lá phiếu của cử tri đi bầu phải thống nhất trong phạm vi cả nước.

Năm là, về số dư ứng cử viên ở mỗi đơn vị bầu cử. Ở các cuộc bầu cử ĐBQH, ĐB HĐND gần đây do luật quy định còn quá chung, nên số dư người ứng cử số ĐBQH được bầu trong một đơn vị bầu cử có tỷ lệ là khá thấp thường là 1,5 đến 1,6 người trên một đại biểu. Quy định này đã hạn chế đáng kể sự lựa chọn của cử tri. Do đó cần tăng đáng kể số dư ứng cử viên cho mỗi đơn vị bầu cử để tạo điều kiện mở rộng phạm vi lựa chọn của cử tri. Theo đó, số dư ứng cử viên để bầu ở mỗi đơn vị bầu cử ít nhất phải bằng số đại biểu được bầu. Cùng với đó cần bổ sung những quy định về ứng cử viên dự bị để chủ động phòng ngừa các trường hợp bất khả kháng xảy ra, như ứng cử viên đã được lựa chọn của các bước hiệp thương bị ốm đau, mắc bệnh hiểm nghèo, tai nạn, chết đột xuất hoặc do yêu cầu công tác được phân công nhiệm vụ mới không thể đảm đương nhiệm vụ đại biểu...

 Sáu là, về vận động bầu cử. Hiện nay các quy định về vận động bầu cử còn quá đơn giản, khuôn mẫu và cứng nhắc. Việc vận động bầu cử đơn thuần chỉ là sự phát biểu, báo cáo dự kiến chương trình hoạt động nếu được trúng cử. Trên thực tế, đây là một hoạt động mang tính rất hình thức, tốn kém mà không đem lại hiệu quả như mong muốn. Theo đó, không có sự cạnh tranh để làm rõ phẩm chất, trình độ, năng lực, quá trình tu dưỡng, rèn luyện và bản lĩnh của mỗi ứng cử viên để cử tri có điều kiện cân nhắc, đánh giá, lựa chọn cả trong Hội nghị hiệp thương và khi tiến hành bầu. Do đó, cần bổ sung những quy định cụ thể về vấn đề này theo hướng có vận động bầu cử, có tranh luận, tranh cử để thực sự vận động bầu cử có tính cạnh tranh lành mạnh giữa các ứng cử viên.

Bảy là, các tổ chức phụ trách bầu cử. Cần đổi mới mô hình tổ chức phụ trách bầu cử theo hướng tập trung, thống nhất; bỏ cấp trung gian; phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình bầu cử theo từng lĩnh vực công việc trong công tác tổ chức bầu cử, nhất là trong điều kiện tổ chức đồng thời bầu cử ĐBQH và bầu cử ĐB HĐND cùng một thời điểm sẽ tránh được sự chồng chéo khi triển khai nhiệm vụ công bố ngày bầu cử, giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử, chủ trì tổ chức bầu cử, giám sát bầu cử, bảo đảm các điều kiện cơ sở vật chất và triển khai các công tác chuyên môn về bầu cử. Cần có những quy định để tăng cường kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác phụ trách bầu cử thông qua các quy định bắt buộc về tập huấn, học tập nâng kiến thức về bầu cử, pháp luật về bầu cử.

Tám là, về cách thức bỏ phiếu và xác định kết quả bầu cử. Luật bầu cử hiện hành quy định “cử tri phải đến phòng bỏ phiếu và trực tiếp bỏ phiếu bầu vào thùng phiếu”, trừ một số trường hợp theo quy định. Trong điều kiện khoa học, công nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện nay, cần nghiên cứu quy định các hình thức bỏ phiếu mới phù hợp như bỏ phiếu bằng thư hoặc qua phương tiện điện tử để tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền bầu cử, nhất là đối với các trường hợp cử tri vì lý do nào đó không thể đến được phòng bỏ phiếu. Nghiên cứu bổ sung các quy định về trình tự, thủ tục, cách thức tổ chức để công dân Việt Nam sinh sống, học tập, làm việc, đầu tư, kinh doanh ở nước ngoài có thể thực hiện quyền bầu cử, ứng cử của mình trên thực tế.

Chín là, về bãi nhiệm đại biểu. Theo quy định hiện hành ĐBQH, ĐB HĐND có thể bị Quốc hội, HĐND hoặc bị cử tri bãi nhiệm khi họ không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của cử tri, nhân dân. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, cách thức để cử tri bãi nhiệm ĐBQH. Cần nghiên cứu để quy định cụ thể ngay trong luật việc thực hiện bãi nhiệm ĐBQH, ĐB HĐND theo hướng UBTVQH quyết định tổ chức để cử tri ở đơn vị bầu cử bãi nhiệm ĐBQH, Hội đồng bầu cử quốc gia tổ chức để cử tri ở đơn vị bầu cử bãi nhiệm ĐB HĐND khi các đại biểu không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của cử tri, Nhân dân. Ủy ban MTTQ cấp hiệp thương giới thiệu người ứng cử có thẩm quyền đề nghị xem xét việc bãi nhiệm. Quyền bãi nhiệm đại biểu trên thực tế chỉ thực sự có ý nghĩa khi gắn với quyền khởi xướng, kiến nghị, đề xuất bãi nhiệm của cử tri. Do vậy, cần quy định về phương thức đề cử tri thực hiện quyền kiến nghị bãi nhiệm, cách thức tổng hợp ý kiến, tỷ lệ hay số lượng cử tri tối thiểu kiến nghị để một cuộc bãi nhiệm trở thành hiện thực ..../.

TS Nguyễn Đình Quyền, nguyên Viện trưởng Viện trưởng Viện nghiên lập pháp; đại biểu Quốc  khóa XII, XIII

Nguồn: https://tcnn.vn/

Thong ke

Tiến sĩ Nguyễn Trung Thành

Phạm Trọng Đạt

Tiến sĩ Bùi Hải Thiêm

Tỉ giá hối đoái