Bảo đảm chất lượng xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay

14:03 16/07/2021

Thực hiện “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” theo Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị, thời gian qua hệ thống pháp luật nước ta ngày càng được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển đất nước. Tuy nhiên, sự tác động của hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã làm cho kinh tế - xã hội có nhiều biến đổi, đòi hỏi hệ thống pháp luật cần tiếp tục hoàn thiện phù hợp với thực tế. Bài viết luận giải các yếu tố bảo đảm chất lượng xây dựng pháp luật và đề xuất một số giải pháp bảo đảm chất lượng xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay.

1. Các yếu tố bảo đảm chất lượng xây dựng pháp luật ở Việt Nam
Xây dựng pháp luật là hoạt động của các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền thực hiện theo trình tự, thủ tục xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) theo quy định. Theo đó, sản phẩm của quá trình xây dựng pháp luật là các VBQPPL, tạo lập hệ thống VBQPPL điều chỉnh tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Khi nói đến chất lượng xây dựng pháp luật cần nói đến các tiêu chí đánh giá chất lượng xây dựng pháp luật được quy định tại Hiến pháp năm 2013, Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 và Nghị định 34/2016/NĐ-CP ngày 14-5-2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành VBQPPL năm 2015. Đó là các tiêu chí về tính hợp pháp, hợp lý, tính khả thi, dân chủ, minh bạch và kỹ thuật xây dựng pháp luật. Để bảo đảm chất lượng xây dựng pháp luật cần có các yếu tố sau đây:

Một là, yếu tố chính trị. Trong xây dựng pháp luật, yếu tố chính trị thể hiện ở sự ổn định bền vững của thể chế chính trị và môi trường chính trị đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; tạo niềm tin của các cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên và người dân đối với Đảng, Nhà nước, từ đó quán triệt, tin tưởng và nghiêm chỉnh thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, bảo đảm mọi quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng đối với chiến lược xây dựng pháp luật, xây dựng pháp luật cho từng lĩnh vực phải được đề ra kịp thời, phù hợp yêu cầu khách quan, đáp ứng đòi hỏi từ thực tiễn quản lý của Nhà nước, bởi đây là cơ sở để Nhà nước thể chế hóa thành các quy định pháp luật. Mặt khác, Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc sự cần thiết xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, toàn diện, là cơ sở xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân chung tay tham gia góp ý kiến, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước trong công tác xây dựng pháp luật. Về ý thức chính trị thể hiện ở việc các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền xây dựng quy phạm pháp luật phải quán triệt, thấm nhuần nhiệm vụ chính trị của mình, các cấp, các ngành lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, sâu sát từng giai đoạn trong quy trình xây dựng pháp luật. Qua đó sẽ giúp cho hoạt động xây dựng pháp luật đạt chất lượng, hiệu quả cao, góp phần tạo niềm tin, tạo ý thức, trách nhiệm chính trị của các chủ thể khác trong quá trình xây dựng pháp luật. Về sự ảnh hưởng của dân chủ XHCN trong hoạt động xây dựng pháp luật. Khi xã hội có nền dân chủ rộng rãi, người dân được tiếp cận thông tin đa dạng, nhiều chiều, công khai, chủ động tham gia góp ý kiến trong các giai đoạn của quy trình xây dựng pháp luật; đồng thời, các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền xây dựng pháp luật phải lắng nghe, tiếp thu ý kiến, phản hồi ý kiến của người dân công khai minh bạch; trường hợp tiếp thu ý kiến thì cụ thể ý kiến về nội dung gì, nếu không tiếp thu thì phải giải trình rõ tại sao không tiếp thu. Qua đó, một mặt bảo đảm quyền dân chủ của người dân trong xây dựng pháp luật, mặt khác, những ý kiến góp ý từ người dân, từ cộng đồng sẽ giúp các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền xây dựng VBQPPL bảo đảm đáp ứng yêu cầu từ thực tiễn, phản ảnh được ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.

Hai là, yếu tố pháp luật. Ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, yếu tố pháp luật được hiểu là tổng thể các yếu tố tạo nên đời sống pháp luật của mỗi quốc gia, đó là hệ thống pháp luật, các quan hệ pháp luật, ý thức pháp luật, văn hóa pháp luật, v.v.. Trong xây dựng pháp luật, sự ảnh hưởng của yếu tố pháp luật đến chất lượng xây dựng pháp luật thể hiện ở các khía cạnh sau:

- Hệ thống các quy định của pháp luật về xây dựng pháp luật, như các quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan nhà nước, trách nhiệm cá nhân có thẩm quyền xây dựng và ban hành VBQPPL. Ngoài ra, các quy định pháp luật ghi nhận, bảo đảm các quyền tham gia xây dựng pháp luật của các cơ quan, tổ chức và người dân. Ở Việt Nam, hoạt động xây dựng pháp luật phải căn cứ các quy định tại Hiến pháp năm 2013, Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trường hợp các văn bản đó quy định khoa học, lôgíc, chặt chẽ, hợp lý sẽ làm cho quy trình xây dựng pháp luật được bảo đảm, các quy phạm pháp luật ra đời có tính khả thi, hợp hiến, hợp pháp..., ngược lại sẽ ảnh hưởng tới chất lượng xây dựng pháp luật.

- Sự ảnh hưởng của văn hóa pháp luật đối với xây dựng pháp luật thể hiện thông qua hành vi pháp luật, sự tuân thủ pháp luật của từng chủ thể có thẩm quyền trong quá trình xây dựng pháp luật, đó là sự nghiêm chỉnh thực hiện đúng, đủ, kịp thời các quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục xây dựng và ban hành VBQPPL. Bên cạnh đó, các yếu tố cổ hủ lạc hậu, sự tồn tại tư tưởng thờ ơ hoặc coi thường pháp luật ở một số nơi, một số người sẽ có tác động tiêu cực tới hoạt động xây dựng pháp luật trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, ý thức, niềm tin của người dân đối với pháp luật, đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền cũng có ảnh hưởng quan trọng đối với hoạt động xây dựng pháp luật nói chung và chất lượng xây dựng pháp luật nói riêng.

Ba là, yếu tố nguồn nhân lực (yếu tố con người). Nguồn nhân lực trong xây dựng pháp luật là các chủ thể tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật, gồm: các cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan có thẩm quyền và các cá nhân có thẩm quyền xây dựng và ban hành VBQPPL theo quy định. Ngoài ra, các cá nhân là những đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, các chuyên gia trong từng lĩnh vực và người dân tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật ở từng giai đoạn nhất định. Để bảo đảm chất lượng xây dựng pháp luật, các chủ thể trên phải đáp ứng các yêu cầu về số lượng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ đối với từng giai đoạn của quy trình xây dựng pháp luật, như yêu cầu về biên chế và vị trí việc làm được duyệt, về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, về tính chuyên nghiệp, mẫn cán và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của mỗi chủ thể v.v..

Bốn là, các yếu tố chi phí lợi ích và cơ sở vật chất. Trong mọi hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước đều cần có kinh phí và cơ sở vật chất để tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, các yếu tố này ảnh hưởng lớn tới hiệu lực, hiệu quả hoạt động của từng cơ quan. Đối với xây dựng pháp luật, yếu tố kinh phí và cơ sở vật chất có tác động lớn tới chất lượng xây dựng pháp luật của các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền bởi nếu kinh phí, cơ sở vật chất không đủ, không phù hợp thì các chủ thể có thẩm quyền khó có thể bảo đảm tiến độ triển khai nhiệm vụ, cũng như các cơ quan, tổ chức và người dân khó có thể thực hiện quyền tham gia xây dựng pháp luật theo quy định.

2. Chất lượng xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay

Trong những năm qua, Quốc hội, Chính phủ, HĐND, UBND và các tổ chức, người có thẩm quyền xây dựng và ban hành VBQPPL đã quán triệt và nghiêm túc thực hiện các quy định về xây dựng pháp luật, qua đó đã thiết lập hệ thống pháp luật điều chỉnh và đáp ứng kịp thời những đòi hỏi từ thực tiễn phát triển đất nước. Để có được điều đó, Nhà nước đã tạo các điều kiện cần thiết để bảo đảm xây dựng pháp luật đạt hiệu quả cao. Sự ổn định chính trị - xã hội và tính kịp thời, phù hợp trong các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng là cơ sở thể chế hóa thành pháp luật, như về vấn đề hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, về tinh gọn bộ máy và tinh giản biên chế, về đẩy mạnh Chính phủ điện tử v.v.. Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật được đào tạo chính quy, bài bản, nhiệt tình, trách nhiệm trong công việc. Chẳng hạn như, số cán bộ, công chức làm công tác xây dựng chính sách, soạn thảo, thẩm định VBQPPL của các bộ, cơ quan ngang bộ là 5.138 người được đào tạo chính quy với 1.929 người có trình độ đại học và 3.030 người có trình độ sau đại học (trong đó có 475 người làm việc tại Bộ Tư pháp; 472 người làm việc tại Vụ Pháp chế các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; 4.191 người làm việc tại các đơn vị chuyên môn thuộc các bộ, cơ quan ngang bộ). Trong khi đó, ở địa phương, số cán bộ, công chức làm công tác xây dựng chính sách, soạn thảo, thẩm định VBQPPL tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh là 11.324 người (102 người có trình độ trung cấp, cao đẳng; 7.553 người có trình độ đại học; 3.504 người có trình độ sau đại học); và tại Sở Tư pháp là 962 người (1 người có trình độ cao đẳng; 805 người có trình độ đại học; 179 người có trình độ sau đại học)(1). Về kinh phí và cơ sở vật chất cho hoạt động xây dựng, ban hành VBQPPL được thực hiện theo quy định tại Thông tư số 338/2016/TT-BTC ngày 28-12-2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng VBQPPL và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Định mức phân bổ kinh phí, nội dung, định mức chi cho hoạt động xây dựng VBQPPL và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã bảo đảm phù hợp với tính chất, vai trò của công tác xây dựng pháp luật, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước đối với công tác này. Trang thiết bị làm việc được trang bị đầy đủ, đồng bộ, đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động xây dựng pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế hiện nay. Đa dạng hóa các hình thức để các tầng lớp nhân dân và doanh nghiệp góp ý vào các dự thảo văn bản pháp luật qua Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Bộ, ngành và các địa phương.

Bên cạnh những kết quả trên, thực tiễn bảo đảm chất lượng xây dựng pháp luật thời gian qua còn bộc lộ nhiều hạn chế:

Một là, về bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng pháp luật và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền. Mặc dù Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 đã quy định bảo đảm thể chế hóa kịp thời đường lối chủ trương của Đảng ngay từ giai đoạn lập đề nghị xây dựng, soạn thảo đến giai đoạn thẩm định, thẩm tra và ban hành. Tuy vậy, thực tiễn trong quá trình xây dựng, ban hành VBQPPL, các cơ quan liên quan chưa chú trọng thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng mà tập trung vào sự phù hợp của chính sách trong dự án, dự thảo văn bản với chủ trương, đường lối của Đảng đó; đối với những chính sách lớn hoặc đối với những dự án, dự thảo VBQPPL có tác động lớn, phức tạp, nhạy cảm chưa kịp thời xin ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Cán sự Đảng và các cấp uỷ Đảng(2). Ngoài ra, trách nhiệm của người đứng đầu trong các cơ quan chưa xác định rõ ràng, cụ thể (chế tài xử lý) trong trường hợp nợ đọng văn bản. Mới đây, tại Phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 3-2019 (của Chính phủ), Thủ tướng đã nhắc nhở về tiến độ ban hành các văn bản quy định chi tiết, đó là còn 16 văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh có hiệu lực từ ngày 1-1-2019 trở về trước còn nợ đọng, thuộc trách nhiệm của 10 Bộ, cơ quan(3). Thái độ của người đứng đầu Chính phủ là rất gay gắt thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc khắc phục hạn chế nêu trên.

Hai là, quy định tại Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 qua 3 năm triển khai thực hiện đã bộc lộc bất cập, như quy định về loại văn bản cần lập đề nghị rộng bởi trường hợp Nghị định của Chính phủ, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh chỉ quy định về biện pháp tổ chức thi hành văn bản của cấp trên (không quy định chính sách mới) nhưng vẫn phải thực hiện quy trình xây dựng chính sách sẽ làm giảm tính kịp thời của văn bản; hoặc quy định các nội dung về đánh giá tác động của chính sách còn chung chung, chưa cụ thể (về phương pháp đánh giá tác động chính sách, công cụ thu thập số liệu và thông tin phục vụ đánh giá tác động...) nên khi thực hiện, cả Trung ương và địa phương đều lúng túng; quy định về lấy ý kiến và góp ý kiến về đề nghị xây dựng VBQPPL mặc dù quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan chủ trì, tuy nhiên chưa quy định cụ thể về giám sát cơ quan chủ trì trong việc tổ chức lấy ý kiến, tiếp nhận, phản hồi đối với những góp ý của các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan; quy định về thời gian ban hành văn bản quy định chi tiết chưa phù hợp; chưa quy định việc xây dựng, ban hành Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo trình tự, thủ tục rút gọn v.v.. Những bất cập từ quy định pháp luật đã tác động tiêu cực tới chất lượng xây dựng pháp luật, dẫn tới nhiều VBQPPL được ban hành trái pháp luật về nội dung, thẩm quyền, không khả thi, không hợp lý. Trong năm 2017, Cục Kiểm tra VBQPPL đã kiểm tra, phát hiện và kết luận 157 văn bản trái pháp luật về nội dung, thẩm quyền, gồm 26 văn bản của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và 131 văn bản của HĐND và UBND cấp tỉnh. Đến năm 2018, số văn bản sai thẩm quyền, nội dung là 84 (27 văn bản cấp bộ và 57 văn bản của của HĐND và UBND cấp tỉnh)(4).

Ba là, đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác xây dựng pháp luật tại các bộ, ngành và địa phương còn thiếu ổn định; những người làm ở các đơn vị khác thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh chủ yếu các chuyên ngành khác, ngành luật chỉ chiếm 27% tổng số cán bộ, công chức tham gia xây dựng chính sách, soạn thảo, thẩm định VBQPPL ở các bộ, cơ quan ngang bộ và 15% ở các cơ quan chuyên môn thuộc của UBND cấp tỉnh(5).

Bốn là, mặc dù có quy định về định mức, phân bổ kinh phí cho các hoạt động xây dựng pháp luật, tuy nhiên, thực tiễn mức chi chưa tạo động lực thu hút các nhà khoa học, các chuyên gia trong từng lĩnh vực (như mức chi lấy ý kiến tư vấn, phản biện của các chuyên gia độc lập là 1.000.000 đồng/báo cáo(6)), do đó, khó có những phản biện độc lập chất lượng đối với từng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

Nguyên nhân của những bất cập trên, trước hết do sự tác động của hội nhập quốc tế, sự tiến bộ của khoa học công nghệ, thông tin đã khiến các cơ quan nhà nước lúng túng trong xác định chính sách, quy định pháp luật mới để điều chỉnh kịp thời. Mặt khác, trình độ của một bộ phận cán bộ công chức làm công tác xây dựng pháp luật còn hạn chế, chưa có sự đánh giá tổng thể thực tiễn v.v..

Như vậy, từ thực tiễn cho thấy, khi chất lượng xây dựng pháp luật chưa được bảo đảm sẽ tác động lớn đối với Nhà nước (khó khăn trong quản lý xã hội), với người dân và doanh nghiệp (về bảo đảm các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân trong các lĩnh vực, về sự phát triển các lĩnh vực trong đời sống xã hội, về tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp...).

3. Giải pháp bảo đảm chất lượng xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, cần xác định “bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng pháp luật” là một nguyên tắc quyết định, nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình xây dựng và ban hành VBQPPL các chủ thể tham gia phải quán triệt và nghiên cứu quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng để bảo đảm thể chế hóa đúng, đủ, kịp thời thành quy định pháp luật. Xuất phát từ vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội, là sự bảo đảm chính trị cao nhất đối với sự tồn tại và phát triển của Nhà nước, trong đó có hoạt động xây dựng pháp luật. Hiện nay, tại Điều 5 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 chưa quy định cụ thể, trực tiếp nguyên tắc và các nội dung về bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong toàn bộ quá trình xây dựng pháp luật, do đó trong thời gian tới dự án Luật sửa đổi Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 cần bổ sung nguyên tắc này theo hướng bảo đảm sự phù hợp của nội dung chính sách trong đề nghị, kiến nghị luật, pháp lệnh; sự phù hợp của từng nội dung dự án, dự thảo luật, các văn bản dưới luật với quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng. Đồng thời cần xác định rõ mức độ thể chế hóa quan điểm, chủ trương, đường lối Đảng về từng vấn đề, từng lĩnh vực đối với các văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy định về xây dựng pháp luật.

Để pháp luật thể hiện được ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân trong xã hội, đồng thời phát huy quyền dân chủ của người dân trong xây dựng pháp luật đòi hỏi cần xây dựng cơ chế giám sát độc lập của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức đối với hoạt động xây dựng pháp luật. Hiện nay, Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 có quy định các dự thảo văn bản phải đăng tải công khai trong thời gian 60 ngày, lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động, tiếp thu ý kiến góp ý đối với các dự thảo v.v.. nhưng nếu các cơ quan có thẩm quyền vi phạm quy định này thì chưa có chế tài xử lý cụ thể. Do đó, dự án Luật sửa đổi Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 cần bổ sung quy định cụ thể về trách nhiệm, chế tài xử lý đối với cơ quan chủ trì, người có thẩm quyền nếu vi phạm trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành VBQPPL; đồng thời cần xác định việc thực hiện nghiêm, đúng, đầy đủ các quy định về xây dựng pháp luật là một trong những tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, công chức và xếp loại thi đua hằng năm.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và sự tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tới các lĩnh vực trong đời sống xã hội, thì cần tiếp tục hoàn thiện các quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng pháp luật. Thiết lập các phần mềm kết nối để cơ quan, tổ chức và người dân có thể theo dõi toàn bộ tiến trình xây dựng, ban hành một VBQPPL từ giai đoạn đầu lập đề nghị xây dựng VBQPPL đến giai đoạn công bố, kiểm tra xử lý, hệ thống hóa VBQPPL, qua đó bảo đảm nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch trong xây dựng pháp luật.

Thứ ba, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tham gia xây dựng pháp luật, bên cạnh trình độ chuyên môn chuyên ngành thì trình độ chuyên ngành luật cần được chú trọng. Chẳng hạn như, bổ sung tiêu chuẩn tuyển dụng đối với vị trí việc làm; tăng cường, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng qua đó góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, tính chuyên nghiệp đối với cán bộ, công chức tại các bộ, ngành, địa phương làm công tác xây dựng chính sách, soạn thảo, thẩm định VBQPPL. Ngoài ra, Nhà nước cần có những giải pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật về xây dựng pháp luật nhằm nâng cao nhận thức của người dân về quyền, trách nhiệm tham gia xây dựng pháp luật. Đó chính là sự chủ động tham gia xây dựng pháp luật của cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp.

Thứ tư, đổi mới tư duy của người đứng đầu về tầm quan trọng và trách nhiệm trong xây dựng pháp luật, đặc biệt là tư duy làm chính sách, xây dựng pháp luật của các bộ, ngành, địa phương, đặc biệt là các cán bộ, công chức tham mưu chính sách, bên cạnh trình độ chuyên môn, cần có kiến thức về pháp luật, có kỹ năng đánh giá tổng hợp thực tiễn để tham mưu chính sách hợp lý, khả thi. Tại Phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 3-2019, Chính phủ đã “yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ phải trực tiếp chỉ đạo, tập trung các nguồn lực, nâng cao chất lượng, bảo đảm tiến độ chương trình xây dựng luật, pháp luật, cũng như các văn bản quy định chi tiết”(7), theo đó, người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương cần xác định xây dựng pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên bên cạnh các nhiệm vụ chính trị khác.

Thứ năm, hiện nay ngân sách nhà nước thực hiện các nhiệm vụ chi ngày càng tăng nên việc Nhà nước xây dựng định mức kinh phí cho hoạt động xây dựng, ban hành VBQPPL đã tạo điều kiện để chủ thể tham gia xây dựng pháp luật thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, trước sức ép cần xây dựng và ban hành nhiều VBQPPL nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật từ Trung ương tới địa phương, kịp thời thể chế hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng thì các cơ quan có thẩm quyền cần tiếp tục nghiên cứu tăng các định mức, đặc biệt định mức về phản biện, đánh giá khoa học để bảo đảm huy động tối đa trí tuệ của những chuyên gia, nhà khoa học trong xây dựng pháp luật, qua đó góp phần bảo đảm chất lượng của từng quy phạm pháp luật.

TS. Dương Thị Tươi 
Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Tài liệu tham khảo:
___________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 6-2019
(1), (2), (5) Xem: Báo cáo đánh giá 3 năm thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 của Bộ Tư pháp, Tài liệu Hội nghị Đánh giá 3 năm thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, ngày 13-12-2018, tr.5, 35, (5).
(3), (4) http://baochinhphu.vn/Tin-noi-bat/Noi-dung-hop-bao-Chinh-phu-thuong-ky-thang-3/362671.vgp
(6) Khoản 8, Điều 4 Thông tư 338/2016/TT-BTC ngày 28-12-2016 của Bộ Tài Chính quy định lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật: Trong trường hợp đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; đề nghị, dự kiến chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; thuyết minh, tờ trình, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật và các báo cáo chuyên ngành, lĩnh vực chuyên môn phức tạp phải lấy ý kiến tư vấn, phản biện của các chuyên gia độc lập thì mức chi 1.000.000 đồng/báo cáo.
(7) Nghị quyết số 20/NQ-CP ngày 19-3-2019 của Chính phủ về Phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 3-2019.

Nguồn: http://lyluanchinhtri.vn

Thong ke

Tiến sĩ Nguyễn Trung Thành

Phạm Trọng Đạt

Tiến sĩ Bùi Hải Thiêm

Tỉ giá hối đoái