Pháp luật Việt Nam về hôn nhân và gia đình

14:57 31/07/2021

Trên cơ sở "Tài liệu hướng dẫn trợ giúp pháp lý các vụ việc hôn nhân và gia đình", bài viết tổng hợp các quy định pháp luật hiện hành về hôn nhân và gia đình ở Việt Nam hiện nay.

1. Hiến pháp 2013 và Luật hôn nhân và gia đình

   + Hôn nhân và gia đình là chế định quan trọng nên một số nguyên tắc được khẳng định trong Hiến pháp các thời kỳ và cụ thể hóa trong Luật HN&GĐ.

Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt; Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới; Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội; nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới (Điều 26). Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình (Khoản1 Điều 21). Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. Nhà nước bảo hộ HNGĐ, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn (Điều 36). Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em (Khoản 1 Điều 37).
 

+ Chế độ HN&GĐ Việt Nam đã được kế thừa, bổ sung, thay đổi, phát triển theo nhiều đạo Luật HN&GĐ, bao gồm đạo Luật HN&GĐ các năm 1959, 1986, 2000, 2014. Thực tiễn áp dụng Luật HN&GĐ năm 1959, năm 1986, năm 2000 hay năm 2014 ảnh hưởng rất nhiều đến việc xét xử, nhất là liên quan đến vấn đề tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng, thời kỳ hôn nhân, xác định cha, mẹ, con[1]

2. Quan hệ hôn nhân gia đình theo pháp luật Việt Nam

a. Quan hệ giữa các thành viên gia đình được pháp luật xác định:

“Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn.

Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định.”

(Khoản 1 và Khoản 2 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 )

 

+ Quan hệ HN&GĐ là quan hệ của những người có sinh hoạt chung, có tài sản chung, các mối quan tâm chung nên thường có nhiều mâu thuẫn và tranh chấp. Tuy nhiên, hiện nay, các đối tượng TGPL thường có nhiều tranh chấp trong các vụ việc về HN&GĐ như ly hôn, BLGĐ, nuôi con nuôi và giám hộ.

+ Thời kỳ hôn nhân được xác định rõ trong Luật:

Thời kỳ hôn nhân, theo Luật HN&GĐ năm 2014 là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân.

(Khoản 13 Điều 3 Luật HN&GĐ 2014)

 

 b. Vợ, chồng có quyền yêu cầu ly hôn

+ Khi mâu thuẫn kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, hoặc có các nguyên nhân khác khiến không thể cùng chung sống thì vợ chồng có thể lựa chọn các hình thức chia tay, về pháp lý thì ly hôn là hình thức được pháp luật công khai công nhận. Việc ly hôn được thực hiện khi vợ chồng thuận tình ly hôn; ly hôn theo yêu cầu của một bên vợ hoặc chồng: (i) Vợ, chồng có hành vi BLGĐ hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng, dẫn đến hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. (ii) Vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố mất tích. (iii) Ly hôn theo yêu cầu của cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của BLGĐ do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

+ Luật HN&GĐ 2014 ghi rõ: Quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật (Khoản 1 Điều 57); hoặc kể từ thời điểm vợ hoặc chồng chết; trong trường hợp Tòa án tuyên bố vợ hoặc chồng là đã chết thì thời điểm hôn nhân chấm dứt được xác định theo ngày chết được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án (Điều 65).

 + Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng (Khoản 1 Điều 88 Luật HN&GĐ 2014).

c. Về tài sản

Luật HN&GĐ quy định rõ:

+ Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 (Điều 42: Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu); nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân (Điều 39): Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng là thời điểm do vợ chồng thỏa thuận và được ghi trong văn bản; nếu trong văn bản không xác định thời điểm có hiệu lực thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản. Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch liên quan đến tài sản được chia phải tuân theo hình thức nhất định thì việc chia tài sản chung đó của vợ chồng có hiệu lực từ thời điểm việc thỏa thuận tuân thủ hình thức mà pháp luật thời điểm đó quy định. Việc chia tài sản chung có hiệu lực kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Quyền, nghĩa vụ về tài sản giữa vợ, chồng với người thứ ba phát sinh trước thời điểm chia tài sản chung có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu khi có một trong các tình huống sau:

1. Ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;

2. Nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ sau đây: a) Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng; b) Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; c) Nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản; d) Nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức; đ) Nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước; e) Nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật này, BLDS và quy định khác của pháp luật có liên quan (Điều 42).

 

+ Khi ly hôn, trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định (Các khoản 2, 3, 4, 5 Điều 59 và các điều 60, 61, 62, 63, 64).

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định (Các khoản 2, 3, 4, 5 Điều 59 và các điều 60, 61, 62, 63, 64) để giải quyết.

 1. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây: a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng;

2. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

3. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật HNGĐ.

Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

4. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.( Khoản 2,3,4,5 Điều 59).

 

d. Nuôi con nuôi

Quy định về nuôi con nuôi được pháp luật Việt Nam quy định rõ tại Luật Nuôi con nuôi năm 2010. Cụ thể:

+ Nuôi con nuôi là việc một người độc thân hoặc hai người là vợ chồng nhận nuôi dưỡng một trẻ em hoặc một người chưa thành niên để xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi với người được nhận làm con nuôi. Người được nhận làm con nuôi phải là người dưới 16 tuổi. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi cũng được nhận làm con nuôi nếu làm con nuôi của cha dượng, mẹ kế hoặc cô, dì, chú, bác, cậu ruột. Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng (Khoản 3 Điều 8). Người nhận con nuôi phải có các điều kiện: có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hơn con nuôi từ hai mươi tuổi trở lên; có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; có tư cách đạo đức tốt (Điều 14).

+ Những người không được nhận con nuôi khi: đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; đang chấp hành hình phạt tù; chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên VPPL; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em (Khoản 2 Điều 14).

+ Việc nuôi con nuôi phải có sự đồng ý của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ (GH) của người được nhận làm con nuôi. Việc nhận con nuôi là trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên phải có sự đồng ý của trẻ em đó (Khoản 1 Điều 21). Việc nuôi con nuôi phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thầm quyền. Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi phát sinh các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo Luật HN&GĐ. Cha mẹ nuôi có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay đổi họ, tên của con nuôi; họ của con nuôi là họ của cha, mẹ nuôi; việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ 09 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của con nuôi.

+ Ngoài quy định các điều kiện, nhằm ngăn ngừa các hành vi lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động của trẻ em, mua bán trẻ em, VPPL về dân số, VPPL về người có công với đất nước…, Luật quy định các hành vi bị cấm:

Luật quy định 7 hành vi bị cấm: (i) Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em; (ii) Giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi; (iii) Phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi; (iv) Lợi dụng việc cho con nuôi để VPPL về dân số; (v) Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước; (vi) Ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi; (vii) Lợi dụng việc nuôi con nuôi để VPPL, phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc (Điều 13).
 

+ Việc nuôi con nuôi có thể được chấm dứt khi: con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi; con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha, mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha, mẹ nuôi hoặc có hành vi phá tán tài sản của cha, mẹ nuôi; cha, mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi; việc nuôi con nuôi vi phạm các hành vi bị cấm (Điều 25).

Hệ quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi: (1) Quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định chấm dứt nuôi con nuôi của Tòa án có hiệu lực pháp luật. (2) Trường hợp con nuôi là người chưa thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì Tòa án quyết định giao cho cha mẹ đẻ hoặc tổ chức, cá nhân khác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục vì lợi ích tốt nhất của người đó. (3) Trường hợp con nuôi được giao cho cha mẹ đẻ thì các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đẻ đã chấm dứt theo quy định tại khoản 4 Điều 24 của Luật này được khôi phục. (4) Trường hợp con nuôi có tài sản riêng thì được nhận lại tài sản đó(Điều 76 Luật HN và GĐ năm 2013); nếu con nuôi có công lao đóng góp vào khối tài sản chung của cha mẹ nuôi thì được hưởng phần tài sản tương xứng với công lao đóng góp theo thỏa thuận với cha mẹ nuôi; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. (5) Con nuôi có quyền lấy lại họ, tên của mình như trước khi được cho làm con nuôi (Điều 76).
 

đ. Giám hộ

+ Giám hộ giữa các thành viên gia đình là GH đương nhiên. Người GH đương nhiên của người chưa thành niên là anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người GH thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người GH, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người GH; trong trường hợp không có anh, chị để làm người GH thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người GH hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người GH; trong trường hợp không có ông bà thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người GH.

+ Người GH đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự: Trường hợp người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ lựa chọn người GH cho mình thì khi họ ở tình trạng mất năng lực hành vi dân sự, cá nhân, pháp nhân được lựa chọn là người GH nếu người này đồng ý. Việc lựa chọn người GH phải được lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Trường hợp không có lựa chọn người GH thì người GH đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự được xác định như sau: vợ hoặc chồng của người mất năng lực hành vi dân sự; trường hợp cha hoặc mẹ không đủ điều kiện làm người GH thì người con cả là người GH; nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người GH thì người con tiếp theo có đủ điều kiện làm người GH là người GH; trường hợp người thành niên mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người GH thì cha, mẹ là người GH (Điều 48, Điều 52, Điều 53 BLDS năm 2015).

e. Bạo lực gia đình

Về vấn đề này, Luật Phòng, chống BLGĐ năm 2007 quy định rất rõ:

+ Bạo lực gia đình thường là nguyên nhân dẫn đến ly hôn, hủy việc nuôi con nuôi, tranh chấp về giám hộ, về tài sản, về cấp dưỡng,… Pháp luật hiện tại quy định, BLGĐ là: “hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình(Khoản 2 Điều 1).

+ Luật Phòng, chống BLGĐ năm 2007 xác định cụ thể 09 nhóm hành vi BLGĐ gồm: (i) hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng; (ii) lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm; (iii) cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng; (iv) ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau; (v) cưỡng ép quan hệ tình dục; (vi) cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; (vii) chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình; (viii) cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính; (ix) có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở (Khoản 1 Điều 2). Hành vi BLGĐ quy định tại 09 nhóm trên cũng được áp dụng đối với thành viên gia đình của vợ, chồng đã ly hôn hoặc nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng.

+ Luật Phòng, chống BLGĐ khuyến khích việc thực hiện các hình thức hòa giải đối với mâu thuẫn, tranh chấp (hòa giải của gia đình, dòng họ; hòa giải của cơ quan, tổ chức và hòa giải tại tổ chức hòa giải cơ sở) (Các điều 12, 13,14, 15); cũng xác định các hình thức xử lý, như: tư vấn, góp ý, phê bình tại cộng đồng; các biện pháp ngăn chặn và bảo vệ, đặc biệt là biện pháp cấm tiếp xúc của Ủy ban nhân dân cấp xã, phường và thị trấn (UBND cấp xã) biện pháp cấm tiếp xúc của Tòa án nhân dân (TAND) cấp huyện; việc phát hiện và xử lý theo quy định của pháp luật về xử phạt hành chính, bồi thường dân sự và truy cứu trách nhiệm hình sự.

f. Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài

   Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc quan hệ hôn nhân và gia đình giữa các bên tham gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.

   a. Nguyên tắc áp dụng pháp luật: Điều 122 Luật HN&GĐ của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được áp dụng đối với quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài, trừ trường hợp:

- Áp dụng quy định của điều ước quốc tế trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật.

- Trong trường hợp các văn bản pháp luật khác của Việt Nam có dẫn chiếu về việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật nước ngoài được áp dụng, nếu việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 2 của Luật HN&GĐ năm 2014.

- Trong trường hợp pháp luật nước ngoài dẫn chiếu trở lại pháp luật Việt Nam thì áp dụng pháp luật về HN&GĐ Việt Nam.

- Áp dụng pháp luật nước ngoài trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên có dẫn chiếu.

   b. Thẩm quyền giải quyết các vụ việc HN&GĐ có yếu tố nước ngoài:

Điều 123 Luật HN&GĐ năm 2014, quy định về thẩm quyền giải quyết các vụ việc HN&GĐ có yếu tố nước ngoài như sau: (i). Thẩm quyền đăng ký hộ tịch liên quan đến các quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài được thực hiện theo quy định của pháp luật về hộ tịch. (ii). Thẩm quyền giải quyết các vụ việc HN&GĐ có yếu tố nước ngoài tại Tòa án được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. (iii). Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và GH giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam theo quy định của Luật HN&GĐ và các quy định khác của pháp luật Việt Nam.

   - Điều 35 Luật Hộ tịch năm 2014 quy định về thẩm quyền đăng ký khai sinh: UBND cấp huyện nơi cư trú của người cha hoặc người mẹ thực hiện đăng ký khai sinh cho trẻ em trong các trường hợp sau đây: Trẻ em được sinh ra tại Việt Nam: (i) Có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là người nước ngoài hoặc người không quốc tịch; (ii) Có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam cư trú ở trong nước còn người kia là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài;(iii) Có cha và mẹ là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài; (iv) Có cha và mẹ là người nước ngoài hoặc người không quốc tịch; Trẻ em được sinh ra ở nước ngoài chưa được đăng ký khai sinh về cư trú tại Việt Nam: (i) Có cha và mẹ là công dân Việt Nam; (ii) Có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam.

   - Điều 37 Luật Hộ tịch năm 2014 quy định về thẩm quyền đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài: (i) UBND cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam thực hiện đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; giữa công dân Việt Nam cư trú ở trong nước với công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài; giữa công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài với nhau; giữa công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài với công dân Việt Nam hoặc với người nước ngoài. (ii) Trong trường hợp người nước ngoài cư trú tại Việt Nam có yêu cầu đăng ký kết hôn tại Việt Nam thì UBND cấp huyện nơi cư trú của một trong hai bên thực hiện đăng ký kết hôn.

- Về thẩm quyền đăng ký nhận cha mẹ con Điều 43 Luật Hộ tịch năm 2014 quy định: UBND cấp huyện nơi cư trú của người được nhận là cha, mẹ, con thực hiện đăng ký nhận cha, mẹ, con giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; giữa công dân Việt Nam cư trú ở trong nước với công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài; giữa công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài với nhau; giữa công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài với công dân Việt Nam hoặc với người nước ngoài; giữa người nước ngoài với nhau mà một hoặc cả hai bên thường trú tại Việt Nam.

   - Về thẩm quyền đăng ký GH, chấm dứt GH Điều 39 Luật Hộ tịch năm 2014 quy định: UBND cấp huyện nơi cư trú của người được GH hoặc người GH thực hiện đăng ký giám hộ giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài cùng cư trú tại Việt Nam. UBND cấp huyện nơi đã đăng ký GH thực hiện đăng ký chấm dứt GH.

   - Về thẩm quyền giải quyết vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Tòa án: Theo quy định (Điều 123, 127 Luật HN&GĐ năm 2014; Điều 35, 469 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015) thì TAND cấp tỉnh nơi bị đơn cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam giải quyết, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 “TAND cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và GH giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và các quy định khác của pháp luật Việt Nam”.

   c. Hợp pháp hóa lãnh sự giấy tờ, tài liệu về hôn nhân và gia đình

Điều 124 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về hợp pháp hóa lãnh dự giấy tờ, tài liệu về hôn nhân và gia đình như sau: Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận để sử dụng giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình thì phải được hợp pháp hóa lãnh sự, trừ trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.

Như vậy, có thể thấy, các quy định của pháp luật Việt Nam về lĩnh vực hôn nhân và gia đình đã tương đối hoàn thiện. Qua các văn bản pháp luật trên, chúng ta thấy rằng, các quyền cơ bản của công dân về hôn nhân và gia đình đã được pháp luật quy định khá cụ thể và chi tiết. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng trong cuộc sống vẫn còn tiếp tục phát sinh rất nhiều vấn đề cần tiếp tục được hoàn thiện và ban hành nhằm đảm bảo các quy định pháp luật có hiệu lực, hiệu quả.

Lê Nhung

***. Bài viết được tổng hợp từ “Tài liệu hướng dẫn trợ giúp pháp lý các vụ việc hôn nhân và gia đình” thuộc Chương trình “Tăng cường pháp luật và tư pháp tại Việt Nam” (EU JULE), do Liên minh Châu Âu tài trợ; UNDP và UNICEF đóng góp tài chính và phối hợp với Bộ Tư pháp Việt Nam thực hiện.

 

[1] Một số vụ án về HN&GĐ có liên quan đến pháp luật về HN&GĐ thời Pháp thuộc được quy định trong Bộ dân luật Bắc kỳ năm 1931, Bộ dân luật Trung kỳ năm 1935, Bộ dân luật Nam kỳ giản yếu năm 1883; ở các tỉnh phía Nam, một số vụ án liên quan đến pháp luật thời chế độ Sài Gòn cũ còn liên quan tới nhiều văn bản pháp luật về HN&GĐ trải qua các giai đoạn từ sau năm 1954 đến ngày 30-4-1975.

Thong ke

Tiến sĩ Nguyễn Trung Thành

Phạm Trọng Đạt

Tiến sĩ Bùi Hải Thiêm

Tỉ giá hối đoái